Hôm nay,  

Tản Mạn Cuối Năm

31/12/201500:00:00(Xem: 6913)
Trong buổi tối giá lạnh của mùa Đông El Nino, chợt cảm thấy tâm hồn như chùng xuống, mặc dầu mới tuần trước đây, cùng với vài tỷ người mừng kính Thiên Chúa giáng trần để cứu nhân loại. Điều làm cho tâm bất an là tuy Tin Mừng mà Thiên Chúa mang xuống trần gian đem lại cho người ta nhiều hy vọng, nhưng thực tế, nhìn chung quanh vẫn thấy con người vẫn chìm trong khổ đau, sự Ác vẫn hiện diện một cách trắng trợn và người ngay lành vẫn bị chà đạp, bị giết một cách thảm thương. Thiên hạ vẫn giết lẫn nhau vì tình, vì tiền hay vì tư thù; kẻ ác vẫn cắt cổ người lương thiện, kẻ có vũ khí và quyền lực trong tay vẫn chà đạp lên nhu cầu Sống Bình An của con người, các nhà lãnh đạo độc tài vẫn bao vây tư tưởng, vẫn cấm đoán người dân phát biểu theo ý mình. Vậy, sự kiện Thiên Chúa hạ sinh có phải là một thất bại không? Chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa có phải là một ảo tưởng của Người Cha nhân từ, muốn cứu con cái mình, nhưng lực bất tòng tâm không?

Câu hỏi này, hình như khó nhận được câu trả lời thích ứng, cho nên, số người tin theo đạo Chúa, mỗi ngày mỗi vơi. Nhiều nhà thờ đóng cửa. Nhiều địa hạt Công Giáo khai phá sản. Người đi tu thì ít hơn người bỏ tu hoặc vẫn còn tu nhưng đi chệch hướng với đường đi của Thiên Chúa. Nhiều vị lãnh đạo Giáo Hội sống lơ là, mũ ni che tai, lo xây nhà thờ to lớn, mặc cho tiếng thở vất vả trong đời sống tối tăm của con chiên vẫn đều đặn bên tai mình. Nếu cứ đà diễn tiến này, thì chẳng bao lâu nữa, đạo Chúa hay ngay cả các Tôn Giáo hiền hòa khác sẽ trở thành những kỷ niệm truyền thống của nhân loại vào thập kỷ 3000. Người ta sẽ không còn tin theo một tôn giáo nào nữa, mà chỉ tin vào sức mạnh của chính mình. Lúc đó, thế giới sẽ thành một nơi hỗn mang, man rợ như những thế kỷ đầu tiên của con người Neanderthals, đã biến mất khoảng 40,000 năm trước đây.

Nhưng thực tế có phải bi quan như thế không?

Không! Thật sự không phải như vậy. Nếu nhìn sâu vào vấn đề khổ đau hay hạnh phúc, chúng ta thấy có một câu hỏi chính: Khổ đau đến từ đâu?

Có hai loại khổ đau: khổ đau chủ quan (hay khổ đau nội tại) và khổ đau khách quan (hay khổ đau ngoại xâm). Khổ đau chủ quan đến tự nội tâm của chính con người. Có những người luôn sống bằng ảo vọng, bằng sự mê say, ham thích những điều vượt quá tầm tay của mình nên lúc nào cũng thấy khổ. Học ít, đi làm lương kém, nhìn thấy bạn bè hay những người khác giầu sang thì cảm thấy khổ. Yêu người không yêu mình thì đau buốt tim gan. Có con cái hư hỏng vì lỗi của mình không giáo dục đến nơi đến chốn thì chán nản. Ăn uống không điều độ sinh bệnh tật thấy đau đớn cả ngày. Đôi khi ăn chay trường, sống hiền hòa mà bỗng dưng mắc bệnh, thì bất mãn với ông Trời. Bố mẹ bất tài, nghèo khổ, làm con cái khổ theo. Cũng có những trường hợp dồi dào khả năng, chịu thương chịu khó, nhưng số kiếp vất vả, làm hoài không khá, thì kêu “Trời ơi! Sao nhẫn tâm đến thế?” Dân gian mình thường hay nói: Người ấy nghèo khổ quá! “Nghèo” thì luôn đi đôi với “Khổ”! Đó là những cái Khổ đau nội tại, phát sinh từ chính tư tưởng của mình rồi chi phối hành động của con người, làm cho người ta thấy Khổ.

Nhưng thật ra, có sự Khổ nội tại như thế không? Giả dụ những người Khổ đau đó mà ở chung với nhau trong cùng một môi trường, mỗi người có một nỗi khổ của mình, thì có thấy Khổ không? Thưa: Không! Tình cảm Khổ Đau chỉ xuất hiện khi có một đối tượng khác không Khổ đau đứng gần, thì mới có sự SO SÁNH giữa sự thiếu thốn của mình với sự đầy đủ của người khác, thì mình mới thấy khổ! Có những cô lái đò, áo quần khâu vá chằng đụp, suốt ngày vất vả nhưng lúc nào cũng có nụ cười trên môi vì quan niệm của người ấy là “biết đủ là đủ” (Tri túc, tiện túc, hà thời túc). Cô lái đò không so sánh mình với ai, nên lúc nào cũng vui. Những người khác, một khi đã thấm nhuần một Chân Lý mà Đức Phật đã chỉ ra: SINH, LÃO, BỆNH, TỬ! Bốn cái Khổ mà con người không thể tránh được, thì sẽ không thấy Khổ, nhất là nếu biết “diệt” cái “dục” tức là lòng muốn của mình đi, cũng sẽ không bao giờ biết đến chữ Khổ nữa. Như vậy, Khổ Đau chỉ là một tư tưởng nẩy sinh khi có sự So Sánh, Đối Chiếu mà thôi. Nếu nhân loại không So Sánh, Đối Chiếu với bất cứ ai, thì sẽ không bao giờ nghĩ rằng mình Khổ!

Còn Khổ Đau Khách Quan (hay Khổ Đau Ngoại Xâm) đến từ bên ngoài con người đập thẳng vào trái tim nhân loại. Khổ đau khách quan đến từ những tổ chức, những cá nhân không còn nhân tính, lúc nào cũng muốn áp đặt sức mạnh thô bạo, ác độc của mình lên những con người yếu đuối, không vũ trang, để thể hiện quyền uy của mình, để cho thiên hạ sợ mà phải thờ kính mình. Từ vị trí được tôn sùng, mà kẻ ác thấy hạnh phúc, thứ hạnh phúc vị kỷ mà người lương thiện lại thấy là gớm ghiếc. Ở chỗ nào có đất, có con người, mà ý niệm Tự Do, Nhân Quyền không được kẻ ác có vũ khí chấp nhận, ở nơi đó, con người bị đàn áp, bị đánh đập, giam giữ, thậm chí bị giết, bị cắt cổ, bị ăn bom đạn. Đời sống con người ở những nơi này thật vô nghĩa. Như ở Việt Nam, nhà cầm quyền ỷ vào bạo lực của mình mà áp đặt một chế độ phi nhân bản, một chế độ vô cảm với hạnh phúc của con người, một chế độ của Những Con Người Lãnh Đạo Robot, không có tư duy, chỉ cử động theo những chương trình cài đặt (program) đòi ăn, ngủ, vệ sinh, tiêu tiền, làm tình, nói láo, kiếm tiền thật nhiều cho dù phải bán cả Tổ quốc của mình, bất chấp danh dự, nhân phẩm, và giá trị của một con người. Nói theo kiểu bình dân, những lãnh đạo Cộng Sản là những động vật chỉ biết đớp, hít, hưởng thụ và tiêu hóa, ngoài ra không có một chút giá trị gì của một con người. Nếu so sánh những kẻ lãnh đạo đó với những động vật có tình cảm khác, thì lãnh đạo Cộng Sản còn thua những con chó trung thành, liều chết bảo vệ chủ nhà mà người ta từng tạc tượng và quý mến.

Từ những nhân vật lãnh đạo mà “nhân” ít hơn “vật” đó, mà con người sống trong xã hội ấy bị khổ đau triền miên. Có gì đau khổ hơn là bị cấm đoán suy tư, cấm đoán phát biểu? Có gì chán nản hơn là bị ép vào một guồng máy, đứng xếp hàng, hô to những khẩu hiệu nhàm chán: “Không gì quý hơn Độc Lập,Tự do! Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng Chân lý ấy không bao giờ thay đổi!” mà thực tế là không có chút độc lập nào, không có chút Tự do nào! Đơn giản hơn, là những con người sống trong chế độ Cộng Sản nếu muốn sống thoải mái, không Đau Khổ, phải chửi rủa chính mình, đấu tố ông bà tổ tiên mình, phải xóa sạch lịch sử để được lãnh đạo thương và ban cho ngôi vị cao mà hưởng thụ! Thực tế, số người mê hưởng thụ như thế chỉ có một số ít, còn lại toàn dân thì đau khổ chập chùng, nhất là khi So Sánh cuộc sống Robot của mình với cuộc sống Tự do của dân tộc khác, hoặc của đồng hương mình đang sống trong xứ sở Tự Do!

Vậy, nếu muốn thoát khỏi khổ đau khách quan như thế, con người phải tìm cách thoát khỏi cái guồng máy đó, phải tìm cách bứt dây chuyền, phá tan cái động cơ ép con người đứng vào dây chuyền robot ấy, nghĩa là phải lật đổ cái chế độ phi nhân, vô cảm ấy thì mới hết được Khổ đau. Ngoài ra không còn biện pháp nào khác. Những đề nghị như “người hải ngoại phải tự nguyện kêu gọi Hòa Giải Hòa Hợp với chế độ Cộng Sản” hoặc “phải về nước xây dựng trước rồi mới thay đổi chế độ chính trị sau” là những đề nghị xuẩn ngốc của những cái máy robot khác ở hải ngoại, được cài đặt những chương trình tiêu thụ và tiêu hóa, nhưng không được cài cái “Tâm” của Nhân Loại.

Đến đây, thì một vấn đề khác nẩy sinh: khi sức lực Trần Thế của con người có giới hạn, thì phải nhờ đến một nguồn lực Siêu Nhiên: Thiên Chúa (hay Thượng Đế, ông Trời), là những Lực đã tác tạo ra con người hôm nay. Con người, trong cơn đau khổ, không thể oán trách Thiên Chúa là đã bỏ lơ loài người, vì thực tế, Thiên Chúa đã cho con người có Tự do suy nghĩ và hành động, nhưng Thiên Chúa không tạo ra chiến tranh, không khuyến khích bạo lực, và chẳng bao giờ hướng dẫn con người vào chỗ Đau Khổ! Chúa Giê Su nói: “Ta đến để đem sự sống vĩnh cửu cho trần thế!” nhưng chính con người đã giết Ngài, đã đánh đập Ngài, và treo Ngài lên thập giá. Từ đó, sự Ác cứ càng ngày càng phát triển một cách khủng khiếp. Trước khi Ngài xuống thế, tội ác đã dẫy đầy nhưng không tràn lan với một cường độ kinh hãi như sau khi Ngài lên trời. Những cuộc chiến sau này nổ ra với số người chết cả năm, sáu chục triệu, đẩy ra các bệnh dịch cũng chết cả chục triệu người và trong tương lai, một trận chiến bằng nguyên tử lực có thể tiêu diệt cả trái đất!

Để đối phó với tai họa khổ đau ghê gớm như thế, chỉ còn cách làm Lành, lánh Dữ, và cầu nguyện. Làm chuyện Lành với những ai đau khổ bên mình, nhất là với những người Dân Oan trong nước. Làm chuyện trả ơn với những Thương Phế Binh bên nhà là những người đã hy sinh một phần thân thể cho lịch sử, cho Tổ Quốc. Và, cầu nguyện với hết cả tâm hồn của một người lương thiện, thì lúc đó, may ra Thiên Chúa mới động tâm mà giải tỏa nỗi khổ đau chập chùng của Dân Việt và đẩy nhóm lãnh đạo Cộng Sản “hèn với giặc, ác với dân” kia ra khỏi giang sơn mình, như lần Chúa Giê Su đã làm là đuổi bọn quỷ dữ ra khỏi thân xác của một người và nhập vào đàn heo, rồi cùng nhào xuống biển…

Chu Tất Tiến, một sáng cuối năm 2015.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.