Hôm nay,  

Đường Vào Ba Sao

28/04/201600:00:00(Xem: 7811)

Trời tháng sáu cái nóng vùng này như thiêu như đốt, một vùng quê nằm ẩn trong quần thể của một dảì núi đá vôi chạy dài từ Ninh Bình đổ ra. Không hiểu sao người ta lại đặt cho cái tên Ba Sao, nghe như quen đánh giá phẩm lượng xếp lọai cho nhà hàng, khách sạn. Thật sự vì tính cách khắc nghiệt của thời tiết cùng thổ nhưỡng canh tác đá nhiều hơn đất, đầm lầy nhiều hơn suối sông, nên dân tình ở đây vừa thưa thớt vừa nghèo đói. Mãi tới cuối những năm 50 thế kỷ trước người ta mới xây dựng cho Ba Sao hai công trình, một nhà tù và một trại tâm thần, cho hai loại cư dân vốn dĩ thuộc dạng gánh nặng cho nhà nưóc.

Ấy vậy mà Ba Sao dần dà trở thành địa danh nổi tiếng khắp miền Bắc, trại tù thì chuyên giam giữ lọại hình sự khét tiếng, viện tâm thần chỉ là vỏ bọc làm nơi chỉ định cư trú cho các cán bộ vô kỷ luật tập kết từ miền Nam ra. Đến khi chiến tranh chống Mỹ nổ ra, thì các phi công từ hạm đội 7 bay vào, không chịu nổi màng lưới phòng không của Hà Nội, chịu thúc thủ và nhiều ông được đem về giam tại đây. Nghe nói nhiều ông Mỹ cũng trốn trại, nhưng do địa hình hiểm trở lại khó mưu sinh, cuối cùng bị bắt lại không phải do người mà là công của… chó. Loại chó bẹc-giê được nước anh em Đông Đức viện trợ, mỗi ngày được ăn khẩu phần thịt bò dành cho giai cấp tư sản và được huấn luyện đánh hơi, dò dấu vết cứ Mỹ là cắn. Có một điều cũng lạ là nhiều tù hình sự cũng trốn nhưng chó không phát hiện được vì không quen hơi tụi cháu.

Vừa lúc chiến tranh chấm dứt thì anh em chúng tôi, những cựu sĩ quan viên chức chế độ cũ chuyển hộ khẩu từ miền Nam ra thế chân cho các cư dân một thời bị giam giữ tại đây. Ba Sao lột xác, trở thành trại tù trực thuộc trung ương, chế độ giam giữ được duyệt lại, vừa khắt khe vừa nghiêm ngặt, để bảo đảm những thành phần chóp bu, nồng cốt, cực kỳ nguy hiểm cho Hà Nội một thời Bắc-Nam phân liệt phải trả giá cho một thời hậu chiến khổ ải gian nan.

Vì không quen lao động khổ sai, sợ nhất là thuộc đội vôi (đập đá làm vôi trên núi) và đội cói (trồng cói dưới đầm có loại đỉa trâu), vừa tuổi đời cao do đa phần là cấp tá, cấp tướng, lãnh đạo dân sự cấp cao,vừa thiếu ăn thiếu thuốc men, thời tiết khắc nghiệt, nên qua cả thập niên sau số trại viên rơi rớt dần, thậm chí một phóng sự mới đây của một nhà hoạt động nhân quyền (cũng trải qua nhà tù nhiều năm), trong bài báo Ba Sao Chi Mộ, cô cho biết có danh sách cả mấy trăm tù nhân cải tạo nằm lại Ba Sao được một viên cựu giám thị có lòng sám hối lén trao cho nhà sư của một ngôi chùa nhỏ tại địa phương giúp việc giải vong. Thực hư ra sao thời gian sẽ bạch hóa, nhưng những nhân chứng còn sống ra được hải ngoại cho biết chuyện này là khả tín.

Ba Sao vốn dĩ cũng là một huyện lỵ thuộc tỉnh Hà Nam, nhưng dân gian kẻ Nam người Bắc vẫn đồng hoá với danh xưng trại tù, nên chẳng cần có chữ trại tù người ta vẫn hiểu Ba Sao là nơi u ám. Kể cũng oan cho dân tình địa phương, đội nắng phơi sương làm ăn lương thiện, nổi tiếng là vùng trồng cói, thứ nguyên liệu dệt chiếu cho những vùng quê châu thổ sông Hồng, nhưng về sau lại chết tên với một hình ảnh sánh vai cùng địa nguc.

Tới đây, tác giả muốn tản câu chuyện sang một khía cạnh khác không nhắc đến lao động khổ sai tù dai u ám, nhưng lại đẫm nước mắt do hoàn cảnh trớ trêu của cảnh tù. Chuyện liên quan đến các bà, vợ của những tù nhân cải tạo, tuy sống cảnh tù ngoài, nhưng hệ lụy u ám cũng chẳng kém gì những kẻ tù trong. Độc giả cứ coi như hư cấu để khỏi suy diễn nhân vật trong chuyện là ai mà chỉ ngầm hiểu nếu có thật thì cũng chẳng phải là hãn hữu trong hoàn cảnh của một thời xã hội nhiễu nhương, người muốn hành người, muốn cất đi cái quyền thiêng liêng của tự do, làm cho bao số phận phải ngậm đắng nuốt cay, gánh chịu những hệ lụy lẽ ra chỉ dành cho kẻ ác.

Có hai người đàn bà tuổi đời chưa đến bốn mươi, từ Nam ra, họ gặp nhau ở một nhà trọ gần ga Hàng Cỏ. Tuy chẳng có liên hệ gì từ trước nhưng họ coi nhau như chị em vì cả hai đều đi thăm nuôi chồng tại trại Ba Sao.

Chẳng hiểu chồng họ tội tình gì mà ở thời điểm này (đầu thập niên 80), trong khi cả trăm ngàn tù cải tạo một thời gấp rút bị đưa ra Bắc nay đột ngột được lên tàu chuyển ngược lại các trại phía Nam, duy hai ông vẫn bị kẹt lại, dồn về an trí tại Ba Sao - trại cuối cùng giam tù chính trị còn lại trên đất Bắc. Số trại viên được thanh lọc từ các trại miền Việt bắc và Trung du gom lại khoảng trên dưới ba trăm, theo chủ trương từ trên, từ nay những người cai tù chỉ lo quản chế, để tù nhân nặng về an trí lâu dài, nhẹ phần lao động, sinh hoạt nới lỏng, hầu tránh cho thân tù khỏi dao động những năm tháng về sau.

Ngỡ tưởng chồng về trong các chuyến xuôi Nam, nhưng kém may mắn nên hai bà phải cất công thăm chồng nơi đèo heo hút gió, đất khách quê người sơn khê cách trở cả ngàn cây số. Bà hơn tuổi vai chị có người thân nước ngoài viện trợ đã có dịp thăm chồng lần đầu năm 80, bà kia cảnh nhà eo hẹp chạy gạo từng cơn nên chỉ gởi quà qua đường bưu điện, chưa một lần gặp lại người chồng cả 7, 8 năm. Thư từ gởi về lâu lâu một lần, ông ít đá động đến cảnh tù đầy sợ bà tủi phận mà lại luôn nhắc chuyện chăn gối và mong ưóc một lần chồng vợ gặp nhau, nhưng ngày về thì quá lê thê.


Nhắc lại chuyện này để thấy mấy ông lãnh đạo cộng sản tuy được gởi vào công tác cưỡng chiếm miền Nam cả hàng chục năm dù cho lý tưởng đầy mình trong lúc nằm vùng cũng phải đèo bòng má bảy mẹ ba, xét cho cùng chỉ vì giải quyết chuyện sinh lý, ấy thế mà sau chiến tranh họ lại làm ngơ bắt người ngã ngựa, đa phần là các sĩ quan trẻ, chịu cảnh nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại và tước đi của họ cũng hàng chục năm một trong tứ khoái của cuộc đời, khiến bao người vợ trẻ ngoài chuyện đầu tắt mặt tối lo cho con cái vừa phai lạt tuổi xuân một mình lẻ bóng qua những đêm dài cạn tình chăn gối. Khoan hồng không biết ở chỗ nào, nhưng vô nhân đạo là ở chỗ này.

Quay lại khía cạnh nhân văn của câu chuyện, tác giả trung thực ghi lại cuộc trò chuyện giữa hai người đàn bà vừa mới kết thân, dưới ánh đèn mờ của khu nhà trọ. (Khi bà chị đến trại Ba Sao thì bà em đã thăm nuôi xong, quay về Hà nội chuẩn bị xuôi Nam. Ấy vậy mà lúc này đã ba ngày rồi bà em vẫn còn bị kẹt chưa chịu lên tàu).

Ô hay, chị tưởng em đã về Nam, sao còn tá túc ở đây?

Chuyện dài dòng lắm chị ơi, bà em bật khóc, số em sao nó khổ thế. Rồi tỉ tê bà kể trước khi đi em đã hỏi kỹ lúc này trại có cho vợ chồng thăm nuôi một đêm nếu không phạm nội qui của trại. Em đã cẩn thận căn ngày hành kinh, để nếu họ cho thăm, vợ chồng sẽ không trở ngại chuyện đó. Nào ngờ khi tới Phủ lý cách Ba Sao ba chục cây số, em phải quá giang xe chở đá để vào trại. Chị biết đấy đường đá dăm, gập ghềnh vách đá vôi, sóc lên sóc xuống, ngồi bệt trên sàn xe lắc lư như lên đồng, em không quen nên vô cùng mệt. Rồi cũng tới trại, trình giấy tờ, họ cho biết diện này được ngủ đêm, em mừng quá, mà chắc anh ấy còn mừng hơn em, hồi xưa em nhớ đi hành quân về tính anh là cứ đòi phải có ngay. Nào ngờ khi thay đồ để chuẩn bị đón chồng em phát hiện em có đường kinh sớm, tính ra sớm tới ba ngày. Em khóc, cán bộ họ thấy dặn em gặp chồng phải tươi tỉnh, tránh hành động tiêu cực ảnh hưởng việc học tập. Em vẫn khóc…

Đến chiều chồng em ra, tay bắt mặt mừng, em vẫn dấu chuyện có tháng. Lên đèn ăn uống xong, thăm hỏi chuyện nhà chuyện cửa, tụi em lên giường. Lúc này em không thể dấu được nữa, em thú thật chuyện đàn bà không thể chăn gối và xin lỗi chồng em.

Chị biết không anh ấy đổi thái độ liền bảo sao đi thăm mà không tính toán trước. Em giải thích thế nào anh ấy cũng chẳng nghe. Rút cục đêm ấy tưởng chừng như địa ngục, thậm chí anh ấy không ôm cả em, quay mặt vào tường ngủ vùi cho đến sáng.

Hai vợ chồng chia tay sáng hôm sau, em lại đón xe ben chở đá quay ra ga Phủ lý lên tàu trở lại đây.

Thế rồi bây giờ cô tính sao? Không lẽ ở lỳ đây.

Em nghĩ mọi sự do lỗi tại em. Đàn ông xa nhà lâu ngày ai chả thế. Em định nghỉ ngơi chờ hết kinh, sạch sẽ rồi em… quay lại, nhưng chỉ sợ khó lòng mà họ lại cho chồng em ra. Chưa kể tiền bạc em đã cạn, đâu có dự trù mấy chuyện này nên phân vân em cũng chưa biết tính sao.

Nói tới đây, linh tính như báo cho cô biết có thể tin người đàn bà đối diện, cô thật lòng xin chị giúp em được không, về Sài gòn em sẽ trang trải.

Bà chị nghe kể cũng thấy mủi lòng, tiền bạc cũng chỉ đủ tiền tàu về nam, với chút tiền ăn đường, nên bà lột ngay chiếc nhẫn vàng đang đeo, một vật kỷ niệm ngày cưới dù có lúc túng thiếu nhưng chưa bao giờ bà bán.

Thôi cô cứ cầm lấy cái nhẫn này, tiền mặt chị không còn nhiều, hết kinh quay lại thăm chú ấy, khi về Sài gòn chị em tính sau.

Bà chị có vẻ tháo vát chuyện đời, còn tính dùm cho cô vợ trẻ chuyện thăm gặp, bà bảo em cứ chuẩn bị ít quà biếu cô Thúy (cán bộ thăm nuôi), thăm đêm không được, năn nỉ thăm ngày thế nào họ cũng cho, chỗ đàn bà em cứ khai thật với họ, biết đâu lại được việc. Chính sách nó dã man chứ tình người đâu phải đá. Còn chuyện kia, ban ngày cũng vẫn được miễn là cán bộ họ làm ngơ. Chị đâu có được thăm đêm mà anh ấy vẫn vui, ăn thua mình biết xử.Thôi em về phòng ngủ đi, ráng giữ sức khỏe. Sáng sớm chị cũng phải lên tàu xuôi chuyến bắc-nam. Hai bên cho địa chỉ, chị em giã từ nhau.

Mọi chuyện xảy ra xuông sẻ như dự tính, có điều ngóng mãi chồng vẫn chẳng ra. Hỏi cô cán bộ thăm nuôi, họ nói anh ấy bảo đủ rồi không muốn gặp tiếp kèm theo lời nhắn cứ về nuôi con.

Chuyện quá buồn, người viết không muốn kể tiếp, chỉ biết đấy cũng là lần thăm nuôi duy nhất của người vợ trẻ. Quà cáp vẫn gởi đều cho đến khi anh chồng được thả 3 năm sau. Rồi chương trình H.O. đưa gia đình họ qua Mỹ. Ông chồng cùng đứa con gái nhận passport, bà vợ không đi, dường như thỏa lòng vì trọn phận sự với chồng con, sau nghe nói bà ăn chay, tu tại gia. (nếu còn sống đến nay cũng ngòai bảy mươi)

Ba Sao, chào mi!

Đỗ Xuân Tê

viết nhân ra mắt sách, Một Thời U Ám (4/2016)

Ý kiến bạn đọc
29/04/201602:44:52
Khách
Đọc câu chuyện " thiếu phụ Nam Xương" này với nỗi xót xa !
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong bối cảnh thế giới đang trải qua những biến động nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và công nghệ, toàn cầu hoá – vốn từng được xem là động lực chính thúc đẩy cho tăng trưởng và thịnh vượng – đang đứng trước những thách thức chưa từng có. Tiến trình công nghiệp hoá và toàn cầu hoá đã đem lại nhiều thành tựu vượt bậc trong suốt thời gian dài qua, từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI, đặc biệt là thông qua sự chuyên môn hoá, tự do thương mại và tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên, các cuộc khủng hoảng tài chính, đại dịch toàn cầu, chiến tranh và cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc đã khiến mô hình toàn cầu hoá truyền thống bộc lộ nhiều tình trạng bất ổn...
Nhiều thế hệ sống ở Sài Gòn những năm của thập niên 80-90, khi con gà trống của Thương Xá Tax chưa bị bức tử, khi những hàng cây cổ thụ trên đường Tôn Đức Thắng vẫn là nét thơ mộng của Sài Gòn, có lẽ đều quen thuộc với câu “Chương Trình Truyền Hình Đến Đây Là Hết…” Nó thường xuất hiện vào cuối các chương trình tivi tối, khi chưa phát sóng 24/24. Thời đó, mỗi ngày truyền hình chỉ phát sóng trong một số khung giờ nhất định (thường từ chiều đến khuya) nên hầu như ai cũng có tâm lý chờ đợi đến giờ ngồi trước màn ảnh nhỏ, theo dõi vài giờ giải trí. Đó cũng là chút thời gian quên đi một ngày cơ cực, bán mồ hôi cho một bữa cơm độn bo bo thời bao cấp. Nhắc nhớ chút chuyện xưa, để nói chuyện nay, đang diễn ra ở một đất nước văn minh hàng đầu, từng là niềm mơ ước của biết bao quốc gia về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận.
Trên mạng gần đây lan truyền một bức tranh chuỗi tiến hóa ngược nhại kiểu Banksy - vẽ hình ảnh tiến hóa quen thuộc từ khỉ tiến tới người, nhưng đến giữa chặng đường, một gương mặt ai cũng nhận ra quay lưng đi ngược lại về phía khỉ. Cái dáng ngoảnh đầu ấy khiến tôi chạnh lòng nghĩ đến hình ảnh nước Mỹ hôm nay. Giữa thế kỷ XXI, lẽ ra phải tiếp tục đi tới, nhưng thay vì mở rộng tự do học thuật – ngọn nguồn của sáng tạo – chúng ta lại thấy những dấu hiệu nước Mỹ thoái lui theo một quỹ đạo lạ lùng: thử nghiệm một kiểu “tiến hóa ngược”.
Từ khi Tối Cao Pháp Viện lật đổ Roe v. Wade, chúng ta đều biết câu chuyện không dừng lại ở đó. “Để tiểu bang tự quyết” chỉ là cái cớ. Và Texas, tiểu bang bảo thủ dẫn đầu, vừa chứng minh điều đó bằng một luật mới: trao cho bất kỳ ai quyền săn lùng và kiện những người dính dáng tới thuốc phá thai. Texas vốn đã có một trong những lệnh cấm khắc nghiệt nhất: phá thai bị cấm hoàn toàn, trừ vài ca y tế khẩn cấp. Không ngoại lệ cho thai dị tật chết non. Không ngoại lệ cho hiếp dâm. Không ngoại lệ cho loạn luân. Thế nên, nhiều phụ nữ Texas chỉ còn con đường tìm đến thuốc phá thai qua mạng, thường từ những nhà cung cấp ở ngoài tiểu bang. Luật mới nhắm thẳng vào cánh cửa mong manh ấy.
Suốt 250 năm, người Mỹ đồng ý rằng cai trị bởi một người duy nhất là sai lầm, rằng chính quyền liên bang vốn cồng kềnh, kém hiệu quả. Lẽ ra hai điều ấy đủ để ngăn một cá nhân cai trị bằng mệnh lệnh từ Bạch Ốc. Nhưng Trump đang làm đúng điều đó: đưa quân vào thành phố, áp thuế quan, can thiệp vào ngân hàng trung ương, chen vào quyền sở hữu công ty, gieo nỗi sợ để buộc dân chúng cúi đầu. Quyền lực bao trùm, nhưng không được lòng dân. Tỉ lệ chấp thuận của ông âm 14 điểm, chỉ nhỉnh hơn chút so với Joe Biden sau cuộc tranh luận thảm hại năm ngoái. Khi ấy chẳng ai lo ông Biden “quá mạnh”. Vậy tại sao Trump, dù bị đa số phản đối, vẫn dễ dàng thắng thế?
Có bao giờ bạn nói một điều rõ ràng như ban ngày, rồi nghe người khác nhắc lại với nghĩa hoàn toàn khác? Bạn viết xuống một hàng chữ, tin rằng ý mình còn nguyên, thế mà khi quay lại, nó biến thành điều bạn chưa từng nghĩ đến – kiểu như soi gương mà thấy bóng mình méo mó, không phải bị hiểu lầm, mà bị người ta cố ý dựng chuyện. Chữ nghĩa, rơi vào tay kẻ cố ý xuyên tạc, chẳng khác gì tấm gương vỡ. Mỗi mảnh gương phản chiếu một phần, nhưng người ta vẫn đem mảnh vỡ đó làm bằng chứng cho toàn bộ bức tranh. Một câu, một đoạn, một khẩu hiệu – xé khỏi bối cảnh trở nên lệch lạc – hóa thành thứ vũ khí đâm ngược lại chính ý nghĩa ban đầu. Câu chuyện của đạo diễn Trấn Thành gần đây là một minh họa. Anh chỉ viết đôi dòng thương tiếc chia buồn với sự ra đi của nghệ sĩ đàn bầu Phạm Đức Thành. Vậy thôi. Thế mà lập tức bị chụp mũ, bêu riếu, bị gọi “3 que,” “khát nước,” “Cali con.” Người ta diễn giải đủ kiểu, vẽ ra đủ cáo buộc: từ tội mê văn hóa Việt Nam Cộng Hòa đến tội phản quốc.
Sau thất bại trước đối thủ đảng Dân Chủ Joe Biden trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020, nội các “gia đình trị” của Donald Trump gần như biến mất khỏi chính trường. Các đồng minh không thể có cùng tiếng nói với Trump, nhất là sau vụ bạo loạn Quốc Hội Jan 06. Duy nhất một người vẫn một lòng trung thành không bỏ rơi Trump, đó chính là Stephen Miller. Nhiệm kỳ hai của Trump, người được cho là có quyền lực hơn trong vòng tròn thân cận của Trump, hơn cả JD Vance, chẳng ai khác hơn chính là Stephen Miller. Để tạo ra những ảnh hưởng chính trong chính quyền Trump hôm nay, Miller đã có một đường dài chuẩn bị, khôn ngoan và nhẫn nại.
Đầu tháng 8 năm 2025, Tổng thống Donald Trump đã ký một mệnh lệnh đặc biệt, chỉ đạo các cơ quan hữu trách lập kế hoạch đưa quân đội Hoa Kỳ đi trấn áp các tổ chức tội phạm ở Mỹ Latinh. Khoảng hai tuần sau, mệnh lệnh đã thành hiện thực. Ba khu trục hạm có gắn phi đạn viễn khiển (guided-missile destroyers) của Hoa Kỳ đã được khai triển tới vùng biển Venezuela, đảm trách việc chặn giữ các chuyến hàng ma túy.
Một góc khuôn viên của Đồi Capitol sáng Thứ Tư là những câu chuyện tưởng đã bị chôn vùi, nay được kể ra trong sự run rẩy, xúc động và cả nước mắt. Trước hàng chục ống kính truyền thông chiếu trực tiếp trên toàn quốc, khoảng mười người phụ nữ lần lượt kể ra câu chuyện của chính mình – nạn nhân của Jeffrey Epstein, tỷ phú tội phạm tình dục và buôn bán mại dâm trẻ vị thành niên. Ngày đó, những phụ nữ này chỉ vừa 16, 18 tuổi, nhỏ nhất là Marina Lacerda, 14 tuổi.
Ở đời, chẳng có ngai vàng nào là miễn phí. Muốn hỏi cưới công chúa thì phải có sính lễ. Làm gì có chuyện đi tay không mà cuỗm được gái đẹp — trừ trường hợp dùng quyền lực bẩn thỉu cưỡng hiếp gái tơ (nghe quen quen). Muốn làm đàng anh đàng chị không thể vừa keo kiệt vừa đòi được người ta kính nể. Quy luật xưa nay không đổi ăn khế thì phải trả vàng. Ngai vàng toàn cầu cũng vậy -- không chỉ làm bằng vàng, mà còn bằng chi phí, lời hứa, và trên hết, là sự tín nhiệm.



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.