Hôm nay,  

Du Tử Lê Và 8 Năm Quân Ngũ Tại Cục Tâm Lý Chiến, Ở 2 Bis Hồng Thập Tự, Sài Gòn

02/07/201600:00:00(Xem: 10745)
Ghi chép của Vương Hồng Anh

*Đôi điều về KBC 3168, 2 bis Hồng Thập Tự Sài Gòn

Trong bài viết “Du Tử Lê, những ngày ở KBC 3168” đăng trên Việt Báo vào cuối tháng 11 năm 1998, chúng tôi có nói qua về Cục Tâm Lý Chiến, mà khu bưu chính (KBC) có danh số là 3168. Doanh trại của đơn vị này đặt tại 2 bis Hồng Thập Tự từ năm 1955. Đây là một địa chỉ bưu chính giao dịch hành chính của đơn vị với các cơ quan dân sự và số 2 bis có một “lịch sử” của nó. Theo tài liệu quân sử của Bộ Tổng Tham Mưu và lời kể của một số niên trưởng đã làm việc tại doanh trại này từ thời gian doanh trại được hình thành, thì trước năm 1955, đường Hồng Thập Tự có tên là Chasseloup Laubat, và địa chỉ bưu chính số 2 là khu xưởng của ngành công chánh, còn 2 bis là doanh trại của một đơn vị của quân đội Liên Hiệp Pháp. Vào khoảng cuối năm 1956, Nha Chiến Tranh Tâm Lý tiếp nhận doanh trại này và xây dựng thêm một số khu nhà mới. Cũng cần ghi nhận rằng đầu tháng 2 năm 1954, trong kế hoạch phát triển quân đội Quốc gia Việt Nam, Bộ Quốc phòng cho thành lập Nha Chiến Tranh Tâm Lý, Tác Động Tinh Thần và Chính trị (tới tháng 9 năm 1956 thì cải danh thành Nha Chiến Tranh Tâm Lý). Đến cuối năm 1964, Tổng cục Chiến tranh Chính Trị được thành lập, quy hợp các nha Chiến Tranh Tâm Lý, Nha An Ninh Quân Đội, Nha Xã Hội Văn Hóa, các nha đổi thành cục, đồng thời tổng cục này lập thêm Cục Chính Huấn và các Nha Tuyên Úy Phật Giáo và Tin Lành( nha Tuyên Úy Công Giáo đã có từ trước). Riêng Nha Chiến tranh Tâm Lý cải danh thành Cục Tâm Lý Chiến, tổng chỉ huy 5 tiểu đoàn Tâm Lý Chiến, 5 Đại Đội Dân Sự Vụ hoạt động tại 4 Vùng Chiến Thuật và Biệt khu Thủ Đô. Cuối năm 1966, các tiểu đoàn Tâm Lý Chiến và Đại Đội Dân Sự Vụ sát nhập thành các Tiểu đoàn Chiến tranh Chính Trị trực thuộc Tổng cục Chiến Tranh Chính Trị. Cục Tâm Lý Chiến chỉ còn cơ quan trung ương gồm có Khối Kỹ Thuật ( điều hành các phòng Điện Ảnh, Vô Tuyến Truyền Hình, Thông tin Báo chí, Văn Nghệ, Ấn Họa, Đài Phát thanh Quân Đội, Nhật Báo Tiền Tuyến) và các khối Kế hoạch, Hành chính, Tình Báo Tâm Lý Chiến, quân số từ hơn 3 ngàn quân nhân, chỉ còn khoảng 500 người vào cuối năm 1966.

*Khi Du Tử Lê thuyên chuyển về Cục Tâm Lý Chiến

Cũng vào cuối năm 1966, một số Tổng Nha, Nha thuộc Bộ Quốc phòng được tái tổ chức, quân số của những đơn vị này, dược bổ sung cho các Cục thuộc Tổng Cục Chiến tranh Chính Trị và Tổng Cục Tiếp Vận. Riêng Khói Kỹ Thuật Cục Tâm Lý Chiến đã tiếp nhận khoảng 30 quân nhân, bổ sung cho các phòng Điện ảnh, Vô Tuyến Truyền Hình, Thông Tin Báo Chí, và Đài Tiếng Nói Quân Đội. Trong số các quân nhân bổ sung cho Phòng Thông Tin Báo Chí có Trung úy Đặng Tràn Huân (cấp bậc cuối cùng: Thiếu tá), Trung úy Lê Cự Phách ( tức là nhà thơ Du Tử Lê, khoảng 2 năm sau, nhà thơ này được thăng cấp đại úy), Thiếu úy Dương Vy Long ( tháng 11 năm 1967 trở thành dân biểu Hạ Viện), Thượng sĩ Phan Bá Thuần Hậu (bút danh là Anh Thuần). Riêng về Trung úy Lê Cự Phách, ban đầu được điều động về Cục Chính Huấn, nhưng sau đó, Cục Tâm Lý Chiến có trình văn xin hoán chuyển về Cục Tâm Lý Chiến,1 sĩ quan khác của cục được điều động thay thế Du Tử Lê ở Cục Chính Huấn.

Khi Du Tử Lê về phòng Thông tin Báo Chí, thì người viết bài này đang phụ trách ban “Phim thời sự” của phòng Điện ảnh vàVô Tuyến Truyền Hình, và đồng thời là sĩ quan Biên tập chương trình Truyền hình Quân đội trung ương do Cục Tâm Lý Chiến đảm trách. Tôi gặp Du Tử Lê lần đầu tại Phòng Thông Tin Báo Chí khi anh vừa đi làm phóng sự chiến trường từ Vùng 2 Chiến thuật trở về. Họa sĩ Mai Chửng, bạn cùng khóa 21 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức với tôi, lúc đó phụ trách về kỹ thuật trình bày của phòng này đã giới thiệu tôi với Du Tử Lê. Sau đó, tôi, Mai Chửng và Du Tử Lê trở thành bạn thân. Và vào giữa năm 1967, thì tôi xin thuyên chuyển về Phòng Thông Tin Báo Chí theo gợi ý của Du Tử Lê và Mai Chửng.

*Những chuyện về Du Tử Lê ở phòng Thông Tin Báo Chí

Khi tôi thuyên chuyển về Phòng Thông Tin Báo Chí, thì quân số của phòng có gần 20 người, trong đó có hơn 10 sĩ quan. Phòng này chiếm nguyên một ngôi nhà trong đó có 1 phòng rộng dành cho phụ tá trưởng phòng và các sĩ quan, 1 phòng dành cho tòa soạn bán nguyệt san Chiến sĩ Cộng Hòa, 1 phòng dành cho bộ phận văn thư và 1 phòng dành cho vị trưởng phòng là Đại úy Nguyễn Đạt Thịnh ( cấp bậc cuối cùng là Trung tá). Khi tôi trình diện trưởng phòng, Đại úy Thịnh đã phân nhiệm tôi vào nhóm Phóng viên lưu động tại 4 vùng chiến thuật để viết phóng sự chiến trường và các tin quân sự cho nhật báo Tiền Tuyến ( do số phóng viên cơ hữu của nhật báo rất ít chỉ phụ trách các phần tin thời sự chính trị, xã hội). Riêng Du Tử Lê, công việc chính là biên tập các bài viết của độc giả gửi về cho bán nguyệt san Chiến sĩ Cộng Hòa, và bản tin thời sự quân đội của nhật báo Tiền Tuyến, Trong trường hợp chiến trường tại các vùng chiến thuật sôi động, thì Du Tử Lê được diều động tăng cường cho nhóm phóng viên chiến trường, và vùng chiến thuật mà anh thường đến là Vùng 2 Cao nguyên.


Trong một năm phục vụ tại phòng Thông Tin Báo Chí, trước khi tôi tình nguyện thuyên chuyển về bộ chỉ huy một trung đoàn tân lập ở chiến trường Quảng Trị-Thừa Thiên, tôi đã chứng kiến nhiều sự việc liên quan đến con người Du Tử Lê, xin được ghi lại sau đây:

*Du Tử Lê và những người khách từ xa đến

Vào những năm 1967, 1968, hàng ngày, ở cửa phòng trực của doanh trại Cục Tâm Lý Chiến, thường có khách xin vào Phòng Thông Tin Báo Chí để gặp một số phóng viên, biên tập viên, với nhiều lý do khác nhau.. Người có nhiều khách nhất là Du Tử Lê, những người khách này thường từ xa về, có người từ Huế, Đà Nẵng vào, có người từ Cao Nguyên xuống, có người từ miền Tây lên, Họ gặp Du Tử Lê để trao đỏi về một bài thơ, bài viết của tác giả đăng ở các tuần báo xuất bản tại Sài Gòn, Những người này được tòa soạn các tòa báo đó hướng dẫn rằng “ cứ đén 2 bis Hồng Thập Tự xin gặp Du Tử Lê ở phòng Thông Tin Báo Chí”. Mỗi lần gặp như thế, Du Tử Lê phải nói nhỏ với Đại úy Phạm Huấn, phụ tá trưởng phòng, xin ra ngoài để đưa khách đi uống nước. Khoản tiền tiếp khách của Du Tử Lê nếu cuối tháng cộng lại cũng chiếm một phần lớn tổng số tiền nhuận bút của các tuần báo trả cho anh.

Trong số những người khách bốn phương đó, có nhiều người còn nhờ Du Tử Lê, qua sự quen biết rộng với các bạn bè ở Không quân, xin cấp giấy vận chuyển bằng phi cơ vận tải quân sự để trở lại địa phương sau chuyến đi Sài Gòn. Một trong những người bạn ở Không quân đã “gánh giùm” cho Du Tử Lê việc này là anh Phan Lạc Giang Đông, lúc đó là quân nhân phục vụ tại Bộ Tư lệnh Không quân.

Không chỉ giúp bạn về vận chuyển, có những trường hợp Du Tử Lê còn tìm chỗ tạm trú cho bạn trong thời gian người này ở Sài Gòn. Chiếc Vespa của anh đã chở không biết bao nhiêu người bạn từ bốn vùng chiến thuật, ngao du Đô Thành.

*Vài câu chuyện về tình bạn của Du Tử Lê

Trong số thi hữu, văn hữu của Du Tử Lê, có vài người (mà vì sự tế nhị xin miễn nên tên) gặp nhiều khó khăn trong đời sống, và mỗi lần từ xa về Sài Gòn, đã được Du Tử Lê tự nguyện lo luôn tiền tiêu vặt, ăn uống, và những chuyện như thế Du Tử Lê không kể với ai.. tôi biết được là do chính do những người đó kể lại với tất cả sự cảm kích về tình bạn của Du Tử Lê.

Trước năm 1975, tôi gặp Du Tử Lê lần cuối vào mùa Hè năm 1973. Thời gian đó, Du Tử Lê phụ trách tòa soạn nguyệt san Tiền Phòng của Phòng Thông Tin Báo Chí. (báo dành cho sĩ quan). Tôi xin phép vào Sài Gòn trong 1 tuần để dự kỳ thi chứng chỉ cử nhân chuyên khoa Nhân Văn. Tôi đã ở lại nhà của Du Tử Lê trong khu cư xá Bưu Điện trong 3 ngày đầu, do nhà bạn gần trường thi. Sau đó, tôi về nhà người cậu để thăm bà con. Khi từ giả bạn, tôi nói rằng mùa hè năm sau, tôi sẽ về lại Sài Gòn để dự kỳ thi hoàn tất chương trình Cử nhân, Nhưng lời hứa đó đã không thực hiện được vì vào mùa Xuân năm 1974, tôi thuyên chuyển về Đà Nẵng, và do công việc tại đơn vị mới quá nhiều, nên tôi đành tạm gác việc thi cử. Tháng 12 năm 1974, khi tôi đang phụ trách Phòng Tâm Lý Chiến của một sư đoàn Bộ binh, vị Tướng Tư lệnh Sư đoàn muốn phổ biến một bài viết về chiến công của Sư đoàn trên nhật báo Tiền Tuyến. Tôi đã cử một sĩ quan đem bài viết về Sài Gòn kèm lá thư của tôi gửi cho Du Tử Lê nhờ bạn chuyển cho nhật báo Tiền Tuyến. Khi giao thư. tôi hỏi người sĩ quan: “Cậu có biết nhà thơ Du Tử Lê không”. Sĩ quan này trở lời ngay: “Em rất thích thơ của Du Tử Lê, nhưng chưa có dịp gặp ông ta”. Sau lần đó, tôi không có dịp để liên lạc với nhà thơ lớn này.

Gần 9 năm sau, vào cuối năm 1981, từ trại tù trở về Sài Gòn, cuộc sống của tôi vô cùng khó khăn, Trước khi được một người bạn bão lảnh vào dạy Toán tại một Trung tâm luyện thi Đại học, trong ba năm đầu, tôi phải làm đủ nghề để mưu sinh. Nhà tôi ở gần Cầu Thị Nghè, mỗi lần đạp xe ngang 2 bis Hồng Thập Tự, tôi đều nhìn vào doanh trại Cục Tâm Lý Chiến của ngày tháng cũ, vào lúc đó đã trở thành một “cơ quan nhà nước”, mà lòng ngậm ngùi. Toàn cảnh của doanh trại có nhiều thay đổi nhưng cái hồn xưa vẫn còn đó.

Tháng Sáu năm 1995, trước ngày rời Sài Gòn để sang Mỹ theo diện H.0, tôi đã đạp xe đi ngang 2 Bis Hồng Thập Tự, và đã dừng lại ở bên đường hơn một phút. Tôi đã nhìn toàn cảnh doanh trại ngày xưa lần cuối, tôi mường tượng khu nhà của Phòng Thông Tin Báo Chí, lòng bùi ngùi nhớ đến những người lính muôn năm cũ, những người bạn của đơn vị đầu tiên trong đời quân ngũ của tôi, và sáng ngời lên trong tâm tưởng là nụ cười hiền hậu của Du Tử Lê mỗi lần thấy tôi từ chiến trường trở về.

 Đêm thứ Sáu 24 tháng Sáu năm 2016

Vương Hồng Anh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
Gần đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố áp dụng chính sách áp thuế 25% đối với ô tô nhập khẩu vào Mỹ, trước đó Trump cũng đã áp đặt biện pháp trừng phạt chung đối với Liên Âu, Canada, Mexico và Trung Quốc, nhưng lại tạm hoãn trong 30 ngày để cho Canada và Mexico thương thuyết. Các biện pháp bất nhất này gây nhiều hoang mang cho chính giới và doanh nghiệp các nước đối tác.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.