Hôm nay,  

Độc lập, tự do và hạnh phúc

04/07/201601:06:00(Xem: 6722)
 
 Độc lập, tự do và hạnh phúc
 
Bùi Văn Phú

 

Sau ba tháng sống qua các trại tị nạn, tôi đến Mỹ vào mùa hè năm 1975. Khi đó ra đường thấy những trạm đổ xăng mang thương hiệu số 76 trên quả cầu tròn mà không hiểu và thấy lạ, vì nhắc đến xăng dầu khách đi đường thường quen với tên của những công ti như Shell, Caltex hay BP, Chevron. Sau mới hiểu ra thương hiệu 76 là mang tinh thần độc lập của người Mỹ được công ti Union Oil ở California chọn đặt tên từ những năm 1932.

 

Một năm sau khi định cư tại Hoa Kỳ, năm 1976 là dịp kỷ niệm 200 năm ngày khai sinh Bản Tuyên ngôn Độc lập nên nước Mỹ tổ chức rất nhiều sinh hoạt chào đón Lễ Độc lập, nhưng tôi chỉ nhớ nhất là được đi xem bắn pháo bông rực rỡ trên bầu trời San Francisco. Còn những món ăn truyền thống trong ngày lễ hội này thì chưa được biết đến nhiều, hay cũng vì chưa quen ăn.

 

Mới qua Mỹ, đã quen cơm gạo lâu năm nên hot dog, burger hay BBQ không gây ấn tượng gì về ẩm thực Mỹ đối với tôi. Tô canh, đĩa rau xào vẫn ngon miệng hơn. Hơn nữa chiếc bánh hamburger đầu tiên tôi được ăn là từ tiệm có tên Oscar ở Berkeley, với quầy bếp nướng thịt trước mắt khách hàng và thịt như bíp-tếch, thơm ngon. Đây là bữa ăn burger đầu tiên của tôi trên đất Mỹ, khi theo cô giáo dạy ESL đưa học trò đi ăn trưa, vì thế tôi chẳng bao giờ mê ăn những món ở cửa hàng McDonald’s vì vừa khô lại không mùi vị.

 

Thấp thoáng mà tôi đã ở Hoa Kỳ hơn 40 năm. Đã quen với nếp sống Mỹ, thích nhiều món ăn lạ, thích pizza, hot dog từ tiệm Top Dog nổi tiếng ở Berkeley, nhưng vẫn không thể thích McDonald’s vì có những chọn lựa khác, cũng burger nhưng của In n Out hay từ những cửa tiệm burger nho nhỏ vẫn có hương vị đậm đà hơn. Còn BBQ giờ cũng đã trở thành truyền thống trong gia đình mỗi khi anh em, bạn bè tụ lại vui chơi, ăn nhậu với đủ thứ hương vị Mỹ, Mễ, Hàn, Tàu pha trộn.

 

Năm nay là Sinh nhật Hoa Kỳ lần thứ 240. Lịch sử ghi rằng ngày 4 tháng Bảy năm 1776, Quốc hội Mỹ thông qua Tuyên ngôn Độc lập, với mười ba tiểu bang đầu tiên chính thức tuyên bố chấm dứt sự lệ thuộc vào Anh quốc.

 

Năm mươi sáu đại biểu quốc hội từ 13 tiểu bang họp tại Independence Hall ở Thủ đô Philadelphia, bang Pennsylvania đã ký tên vào bản tuyên ngôn. Nước Mỹ chính thức chấm dứt sự lệ thuộc vào vương quốc Anh từ đó.

 

Ngày nay 13 tiểu bang đầu tiên của Hiệp Chúng Quốc được biểu hiện trên cờ Mỹ bằng 13 vạch đỏ và trắng, gồm: Connecticut, New Hamsphire, Rhode Island, Massachusetts, New York, Delaware, Pennsylvania, New Jersey, Virginia, Maryland, South Carolina, North Carolina và Georgia.

 

Sau khi tuyên bố độc lập, người Mỹ tiếp tục mở rộng cõi bờ bằng những cuộc nam tiến và tây tiến, chiếm đất giành dân cùng trải qua rất nhiều cuộc chiến để mở mang biên thùy. Có những cuộc chiến ngắn ngủi chỉ vài tháng, một năm, thường là đánh nhau với những bộ lạc da đỏ như ba lần chiến tranh với dân Seminole. Có những cuộc chiến kéo dài nhiều năm như Texas Indian Wars từ 1820 đến 1875, hơn nửa thế kỷ.

 

Rồi đến chiến tranh Cayuse từ 1847 đến 1855. Cuộc chiến Navajo từ 1858 đến 1866 ở vùng đất ngày nay là tiểu bang New Mexico. Cuộc chiến Bắc Nam giải phóng nô lệ 1861-1865. Chiến tranh Yaqui ở Arizona và Mexico từ năm 1896 đến 1918.

 

Không chỉ chiến tranh nội bộ mà người Mỹ còn phải chống ngoại xâm đến từ Anh quốc, Tây Ban Nha, Pháp.

 

Cho đến đầu thế kỷ 20, chiến tranh vẫn còn xảy ra trong nội địa Hoa Kỳ với cuộc chiến biên giới với Mexico từ năm 1910 đến 1919.

 

Trong 240 năm lập quốc, hầu hết có chiến tranh trong nước Mỹ. Vô số những cuộc chiến lớn nhỏ, dài ngắn để thành hình liên bang Hoa Kỳ như ngày nay.

 

Khởi đi với 13 tiểu bang nguyên thủy khi Bản Tuyên ngôn Độc lập được ký ban hành, đến nay với 50 tiểu bang hợp quần gây sức mạnh đã đưa nước Mỹ lên hàng cường quốc trong hơn nửa thế kỷ qua. Như chúng ta thấy 13 sọc và 50 sao trên cờ Mỹ.

 

California gia nhập liên bang Mỹ năm 1850. Những tiểu bang miền tây gia nhập liên bang sau cùng là Alaska và Hawaii vào năm 1959, New Mexico và Arizona năm 1912 và Oklahoma năm 1907.

 

Khi Tuyên ngôn Độc lập ra đời, dân số Mỹ ước chừng 2 triệu 500 nghìn dân, tăng gấp đôi vào năm 1798. Đến năm 1871 là 40 triệu. Năm 1953, sau Thế Chiến thứ Hai là thời gian Hoa Kỳ bắt đầu phát triển nhanh, dân số Mỹ đạt mức 160 triệu. Hiện thời là 310 triệu.

 

Công dân Mỹ đa số có nguồn gốc di dân. Người Việt cũng như biết bao di dân khác đã đến đây định cư lập nghiệp là do ở truyền thống đón tiếp di dân của đất nước này.

 

Bản Tuyên ngôn Độc lập được Quốc hội phê chuẩn năm 1776 thừa nhận rằng con người sinh ra ai cũng có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Tinh thần đó đã hấp dẫn người dân khắp thế giới muốn đến Hoa Kỳ sinh sống.

 

Thomas Jefferson là nhân vật chính soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập và có sự góp ý, sửa đổi của John Adams và Benjamin Franklin.

 

Những ý tưởng của Thomas Jefferson về tự do của con người đã được Hồ Chí Minh đưa vào Bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam được tuyên đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945. Đây là sự kiện mà lãnh đạo Việt Nam hiện thời hay nhắc đến để tiến tới quan hệ tốt đẹp hơn với Hoa Kỳ.

 

Trong chuyến thăm Mỹ năm ngoái của lãnh đạo Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đến thăm đài tưởng niệm Thomas Jefferson ở Thủ đô Washington. Tuy nhiên sự kiện này ít được truyền thông trong nước nhắc đến.

 

Tổng thống Barack Obama trong chuyến đi Việt Nam hôm tháng Năm nhắc đến tinh thần đấu tranh giành độc lập của dân Việt trong lịch sử với bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt. Lãnh đạo Mỹ cũng nhắc đến tư tưởng về độc lập, tự do của Thomas Jefferson trong Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam.

 

Nhưng nhìn vào thực tế lịch sử thì tinh thần độc lập và tự do ở hai nơi còn là một khoảng cách lớn, như cả một đại dương bao la.

 

Nếu yêu và hiểu được nước Mỹ, bạn sẽ thấy ca từ trong quốc ca Hoa Kỳ thật ý nghĩa: “The land of the free and the home of the brave”. Đúng là “Đất nước của con người tự do và quê hương của những người can đảm”.

 

Còn ở Việt Nam, khắp nơi nhan nhản khẩu hiệu “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc”, nhưng, như có lời giải thích tếu táo về những điều đó là “Độc lập trừ tự do trừ hạnh phúc”. Đó lại là sự thực.

 

© 2016 Buivanphu.wordpress.com

 

 blank

H01: Independence Hall ở Thành phố Philadelphia nơi Bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ được công bố cách đây 240 năm (ảnh Bùi Văn Phú).

 
blank

H02: Chuông Tự do đặt trước Independence Hall (ảnh Bùi Văn Phú)

 



.
.

Ý kiến bạn đọc
04/07/201616:08:00
Khách
Mà thực sự có Độc Lập chưa ???
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 17 tuổi, đang khi học thi tú tài, tôi bỗng nhiên bị suyễn. Căn bệnh này – vào cuối thế kỷ trước, ở miền Nam – vẫn bị coi là loại nan y, vô phương chữa trị. Từ đó, thỉnh thoảng, tôi lại phải trải qua vài ba cơn suyễn thập tử nhất sinh. Những lúc ngồi (hay nằm) thoi thóp tôi mới ý thức được rằng sinh mệnh của chúng ta mong manh lắm, và chỉ cần được hít thở bình thường thôi cũng đã là một điều hạnh phúc lắm rồi. If you can't breathe, nothing else matters!
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao? Giả thiết người ấy là ta, cuộc đời ta sẽ như thế nào? Ai cũng có thể tự đặt câu hỏi như vậy và tự cảm nghiệm về ý nghĩa của câu hỏi ấy. Sinh hoạt của một người, trong từng giây phút, không thể không có trí nhớ. Cho đến một sinh vật hạ đẳng mà chúng ta có thể biết, cũng không thể tồn tại nếu nó không có trí nhớ. Trí nhớ, Sanskrit nói là smṛti, Pāli nói là sati, và từ Hán tương đương là niệm, cũng gọi là ức niệm, tùy niệm. Nói theo ngôn ngữ thường dùng hiện đại, niệm là ký ức. Đó là khả năng ghi nhớ những gì đã xảy ra, thậm chí trong thời gian ngắn nhất, một sát-na, mà ý thức thô phù của ta không thể đo được.
Ba mươi năm trước tôi là thành viên hội đồng quản trị của một cơ quan xã hội giúp người tị nạn trong khu vực phía đông Vịnh San Francisco (East Bay) nên khi đó đã có dịp tiếp xúc với người tị nạn Afghan. Nhiều người Afghan đã đến Mỹ theo diện tị nạn cộng sản sau khi Hồng quân Liên Xô xâm chiếm đất nước của họ và cũng có người tị nạn vì bị chính quyền Taliban đàn áp. Người Afghan là nạn nhân của hai chế độ khác nhau trên quê hương, chế độ cộng sản và chế độ Hồi giáo cực đoan.
Bà Merkel là một người đàn bà giản dị và khiêm tốn, nhưng nhiều đối thủ chính trị lại rất nể trọng bà, họ đã truyền cho nhau một kinh nghiệm quý báu là “Không bao giờ được đánh giá thấp bà Merkel”.
Hai cụm từ trọng cung (supply-side) và trọng cầu (demand-side) thường dùng cho chính sách kinh tế trong nước Mỹ (đảng Cộng Hòa trọng cung, Dân Chủ trọng cầu) nhưng đồng thời cũng thể hiện hai mô hình phát triển của Hoa Kỳ (trọng cầu) và Trung Quốc (trọng cung). Bài viết này sẽ tìm hiểu cả hai trường hợp. Trọng cung là chủ trương kinh tế của đảng Cộng Hoà từ thời Tổng Thống Ronald Reagan nhằm cắt giảm thuế má để khuyến khích người có tiền tăng gia đầu tư sản xuất. Mức cung tăng (sản xuất tăng) vừa hạ thấp giá cả hàng hóa và dịch vụ lại tạo thêm công ăn việc làm mới. Nhờ vậy mức cầu theo đó cũng tăng giúp cho kinh tế phát triển để mang lại lợi ích cho mọi thành phần trong xã hội. Giảm thuế lại thêm đồng nghĩa với hạn chế vai trò của nhà nước, tức là thu nhỏ khu vực công mà phát huy khu vực tư.
Gần đây, chỉ một tấm ảnh của nữ trung sĩ TQLC Hoa Kỳ – Nicole Gee – ôm em bé người Afghan với thái độ đầy thương cảm thì nhiều cơ quan truyền thông quốc tế đều phổ biến và ca ngợi! Nhân loại chỉ tôn trọng sự thật, trân quý những tâm hồn cao thượng và những trái tim biết rung động vì tình người – như nữ trung sĩ TQLC Hoa Kỳ, Nicole Gee – chứ nhân loại không bao giờ thán phục hoặc ca ngợi sự tàn ác, dã man, như những gì người csVN đã và đang áp đặt lên thân phận người Việt Nam!
Tôi vừa mới nghe ông Trần Văn Chánh phàn nàn: “Cũng như các hội nghề nghiệp khác, chưa từng thấy Hội nhà giáo Việt Nam, giới giáo chức đại học có một lời tuyên bố hay kiến nghị tập thể gì liên quan những vấn đề quốc kế dân sinh hệ trọng; thậm chí nhiều lần Trung Quốc lấn hiếp Việt Nam ở Biển Đông trong khoảng chục năm gần đây cũng thấy họ im phăng phắc, thủ khẩu như bình…”
Thế giới chưa an toàn và sẽ không an toàn chừng nào các lực lượng khủng bố trên thế giới vẫn còn tồn tại, một nhà báo, cựu phóng viên đài VOA từ Washington D.C. nói với BBC News Tiếng Việt hôm thứ Năm. Sự kiện nước Mỹ bị tấn công vào ngày 11 tháng 09 năm 2001 đã thức tỉnh thế giới về một chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo cực đoan đang tồn tại trong lòng các nước Trung Đông. Giờ đây, sau 20 năm, liệu người Mỹ có cảm thấy an toàn hơn hay họ vẫn lo sợ về một cuộc tấn công khủng bố khác trên đất nước Hoa Kỳ hay nhằm vào công dân Mỹ ở nước ngoài.
Vào ngày 11 tháng 9 năm 2001, những kẻ khủng bố Hồi giáo thuộc tổ chức mạng lưới Al-Qaida đã dùng bốn phi cơ dân sự làm thành một loại vũ khí quân sự để tấn công vào Trung tâm Thương mại Thế giới ở New York và Lầu Năm Góc ở Washington D.C. Các sự kiện không tặc loại này là lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh của nhân loại và đã có hậu quả nghiêm trọng nhất trong lịch sử cận đại.
Thứ Bảy, ngày 11/09/2021, nước Mỹ tưởng niệm 20 năm vụ tấn công khủng bố thảm khốc nhắm vào tòa tháp đôi World Trade Center ở New York, bộ Quốc Phòng Mỹ ở gần Washington và ở Shanksville tại Pennsylvania. Gần 3.000 người chết, hơn 6.000 người bị thương. Hai mươi năm đã trôi qua, vẫn còn hơn 1.000 người chết đã không thể nhận dạng. Chấn thương tinh thần vẫn còn đó. Mối họa khủng bố vẫn đeo dai dẳng. Lễ tưởng niệm 20 năm vụ khủng bố gây chấn động thế giới diễn ra như thế nào, nhất là trong bối cảnh Hoa Kỳ triệt thoái toàn bộ binh sĩ khỏi Afghanistan sau đúng 20 năm tham chiến ? Mời quý vị theo dõi cuộc phỏng vấn với nhà báo Phạm Trần từ Washington.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.