Hôm nay,  

Dân Tộc Sinh Tồn và Phán Quyết PCA

16/07/201612:49:00(Xem: 5250)

Dân Tộc Sinh Tồn và Phán Quyết PCA

Quốc Phùng

 

Cuối cùng rồi tòa Trọng tài Thường Trực PCA (Permanent Court of Arbitration) cũng đưa ra phán quyết ngày 12-7-2016 phủ nhận hoàn toàn các đòi hỏi của Trung Cộng về chủ quyền của đường Lưỡi Bò (Nine-Dash Line) bao trùm toàn bộ biển Đông. Bộ Ngoại Giao Trung Cộng rồi đến CT Tập Cận Bình liên tiếp đưa ra những lời phản đối lẫn đe dọa. Trung Cộng than thở rằng mình là nạn nhân (?!) và tuyên bố sẽ có biện pháp mạnh để bảo vệ “biển đảo truyền thống” (?!) hàng ngàn năm.

 

Ngay sau phán quyết, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao của chính quyền Cộng Sản Việt Nam (CSVN) nói nước đôi rằng “ủng hộ mạnh mẽ việc giải quyết các tranh chấp ở biển Đông bằng các biện pháp hoà bình bao gồm các tiến trình ngoại giao và pháp lý, duy trì hoà bình và ổn định trong khu vực...” (sic). Không thấy CSVN đả động gì tới việc thực thi phán quyết PCA!

 

Nhân dân Việt Nam mong mõi nhìn thấy các hành động cụ thể từ nhà cầm quyền CSVN (một trong 5 chính thể Cộng Sản cuối cùng còn lại trên hành tinh, trong đó Lào và Cu Ba đang dần biến thể). Việt Nam cần mạnh mẽ có hành động, chứ không phải lên tiếng xuông, bảo vệ chủ quyền quốc gia cùng sinh mạng cũng như tài sản ngư dân khi Trung Cộng hống hách đánh đập, giết hại và đâm chìm tàu cá của ngư dân Việt Nam.

 

Một bài học từ nước láng giềng, nhờ có một chính thể dân chủ tự do, Nam Dương đã mạnh mẽ dứt khoát đương đầu với Trung Cộng (dù không có thành tích “chống ngoại xâm” như CSVN thường rêu rao tự đề cao mình). Theo tin RFI, ngày 17-6-2016, tại vùng quần đảo Natuna, hải quân Nam Dương rượt đuổi nhiều tàu cá Trung Cộng, bắn hư hại một tàu, làm bị thương một người và bắt giữ các ngư dân TC xâm nhập trái phép. Tàu hải giám Trung Cộng không dám vào tiếp cứu như mọi khi. Gặp phản ứng mạnh, Trung Cộng đành... gởi công hàm phản đối và... muối mặt bỏ qua! Dĩ nhiên sau đó, tàu hải giám lẫn tàu cá Trung Cộng chạy mặt, không dám lai vãng đến gần vùng biển Natuna đặc quyền kinh tế của Nam Dương nữa.

 

Trong luật Sinh Tồn của muôn loài, điều kiện căn bản cho sự sinh tồn là Luật Tranh Đấu. Muốn đạt được mục tiêu tranh đấu của mình, có 3 điều kiện để quyết thắng. Đó là (1) Luật Sức Mạnh, (2) Luật Biến Cải (để đạt thắng lợi trong mọi nghịch cảnh) và (3) Luật Hợp Quần (để cùng hành động hiệu quả).

 

Trong cả 3 điều kiện đấu tranh nhằm bảo vệ quốc gia và dân tộc trước sự lấn áp của bá quyền bành trướng Trung Cộng, CSVN hoàn toàn đi ngược lại các định luật Sinh Tồn của Dân Tộc.

 

1. Luật Sức Mạnh: Để bảo vệ một quốc gia, có hai lãnh vực cần phải phát triển là sức mạnh kinh tế và sức mạnh quốc phòng.

 

Về Sức Mạnh kinh tế: Trong khi Trung Cộng đặt hết trọng tâm vào phát triển kinh tế và đầu tư vào chất xám (chưa kể trộm cắp kỹ thuật cao) suốt mấy mươi năm qua, ngoài vấn đề vượt trội về sản xuất, năng suất làm việc của một công nhân hoặc một chuyên viên Trung Cộng cũng cao gấp nhiều lần so với Việt Nam. Vì đâu nên nỗi? Cả hai nước cùng theo một mô hình cộng sản mà! Mãi lực kinh tế của hai quốc gia chênh lệch nhau “một trời một vực”. Đừng đổ thừa là nước ta nhỏ bé hơn! Chúng ta thử so sánh, Việt Nam với dân số và lãnh thổ gần tương đương Nhật Bản và gần gấp đôi Nam Hàn (Hàn Quốc), Việt Nam cũng thua kém hai quốc gia Á Châu này “một trời một vực”. Diện tích và dân số Nhật khá tương đồng với Việt Nam nhưng sức mạnh kinh tế của Nhật ngang ngữa với Trung Cộng. Lợi tức (thu nhập, income per capita) của Nhật cao hơn Trung Cộng rất nhiều. Kỹ thuật Nhật tân tiến hơn, môi sinh lành mạnh và trong sạch hơn nhiều...

 

Người dân Việt Nam ra ngoại quốc hiện nay luôn luôn đi làm thuê, làm điếm, làm tôi tớ cho thiên hạ. Không như những người liều chết vượt biên, vượt biển  tránh họa Cộng Sản 40 năm trước đây đã làm vẻ vang cho dân Việt trên khắp các châu lục. Vì đâu có sự khác biệt to lớn giữa người Việt hải ngoại tị nạn Cộng Sản 40 năm trước và người Việt hiện nay ra hải ngoại 40 năm sau như vậy? Có phải đó là thành quả 60 năm trồng ở miền Bắc và 40 năm trồng người ở miền Nam của đảng CSVN?

 

Về Sức Mạnh quốc phòng: Trong khi Trung Cộng chăm chú tăng cường và hiện đại hoá sức mạnh quân sự suốt mấy chục năm qua, dù chưa đủ mạnh như Đặng Tiểu Bình nhắn nhủ “Thao quang dưỡng hối” đã vội phô trương sức mạnh với Hoa Kỳ, Việt Nam dưới sự cai trị của đảng Cộng Sản vẫn loanh quanh với mấy chiếc xe “đặc chủng” hiện đại dùng để đàn áp nhân dân. Tàu ngầm Kilo chỉ để huấn luyện vì không trang bị vũ khí. Máy bay Sukhoi chưa ra khỏi không phận đã bị bắn hạ!... Quân đội nhân dân từ cấp cao nhất trở xuống chỉ lo chí thú làm ăn. Cho ngoại quốc mướn đất công và đầu tư vào các lãnh vực truyền thông và ngân hàng ...

 

Có phải chính sự bất tài và tham nhũng của chính quyền CSVN đã làm quốc gia ngày càng suy nhược, dân khí ngày càng lụn bại hay không?

 

2. Luật Biến Cải: Sau đây là những cách thế Biến Cải của đảng CSVN

 

Trong lịch sử CS từ trước đến nay, đảng CSVN luôn tự hào rằng nhờ sự lãnh đạo “tài tình” của đảng nên Việt Nam tránh được biết bao nhiêu xung đột, tiết kiệm biết bao xương máu của nhân dân... Sách lược đu dây đó đã được Hồ Chí Minh triệt để áp dụng suốt thời kỳ chiến tranh Việt Pháp (1945-1954): Bắt tay với Pháp để tiêu diệt các lực lượng quốc gia trước, rồi sau đó mới hô hào toàn dân kháng chiến chống Pháp. Trong chiến tranh Quốc Cộng giữa hai miền Nam Bắc (1954-1975),  dưới sự lãnh đạo của Lê Duẫn, đảng CSVN trong tư thế đứng giữa Nga và Hoa, không ngã về bên nào để hưởng được lợi nhiều nhất của cả hai bên.

 

Về chính trị, hiện nay dù đang bị Trung Cộng đè đầu cưỡi cổ nhưng CSVN vẫn một lòng cúc cung tận tụy và chứng tỏ sự trung thành để mong mõi “hoà bình và ổn định”. Một đồng phạm đã về hưu trước đây phải thốt lên: “Không đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghị viễn vông...”. Mỗi lần bộ Ngoại Giao CSVN lên tiếng phản đối hành động giết hại ngư dân hoặc phản đối giàn khoan 981 để vỗ an dân chúng thì thế nào cũng có những liên lạc riêng với đại sứ quán Trung Cộng hoặc phái sứ thần đi chầu tại Trung Nam Hải để trần tình mong được sự cảm thông và tha thứ.

 

Về quốc phòng, CSVN vẫn nhu nhược tối tăm trong chính sách 3 không như con đà điểu vùi đầu vào cát khi gặp hiểm nguy: Không để nước ngoài thiết lập căn cứ quân sự tại Việt Nam, không đi với nước này để chống nước kia và không cho nước khác sử dụng lãnh thổ của mình để chống lại một nước khác. Bài học của Phi Luật Tân kiện Trung Cộng ra toà hay thái độ dứt khoát của Nam Dương bảo vệ vùng biển Natuna khiến Trung Cộng phải chùn bước có làm Bộ Chính Trị ôm đầu suy nghĩ?

 

3. Luật Hợp Quần: Thật ra, nếu nghiên cứu mọi lãnh vực như hợp tác kinh tế, quốc phòng và an ninh tình báo của CSVN, không ai là không thấy CSVN hoàn toàn cô độc.

 

Trong khối Asian, các quốc gia khác đều e dè Việt Nam, xem đây là loài “sói đơn độc” (lone wolf) không ai muốn gần. Việt Nam dưới sự cai trị của đảng Cộng Sản đã biến mình thành một loại người cơ hội “opportunist” không đáng tin cậy và hay xin xỏ. Những khoe khoang tán tụng với dân chúng rằng Việt Nam được sự kính trọng của thế giới thật ra là những lời láo khoét. Dựa vào những thăm viếng ngoại giao hời hợt (diplomatic) hoặc những hiệp ước thương mại mà Việt Nam chỉ là kẻ làm gia công quốc tế thì Việt Nam được kính trọng chổ nào? Đó là chưa kể các toà đại sứ, lãnh sự, hàng không Việt Nam là những ổ buôn lậu từ ngà voi đến sừng tê, tàng trữ những đồ ăn cắp từ siêu thị và cả ma túy mà truyền thông quốc tế tại các quốc gia sở tại vẫn thường phanh phui...

 

Việt Nam rất muốn kết thân với Nga Sô, nhưng mỗi lần sáp lại gần Nga thì đàn anh Trung Cộng lại “chia uyên rẽ thúy”. Hơn nữa chơi với Việt Nam, Nga cũng không có lợi bằng chơi với Trung Cộng. Việt Nam cũng muốn kết thân với Ấn Độ, nhưng thật ra Ấn cũng biết rằng Việt Nam chỉ là một tên lợi dụng, hay xin xỏ vặt, tình cho không biếu không. Ấn chỉ muốn giữ một khoảng cách vừa phải với Việt Nam để gây ảnh hưởng mà thôi.

 

Với chính sách xoay trục sang Á Châu của Hoa Kỳ, Việt Nam vô tình là một quân cờ rất đắc dụng có thể làm lệch cán cân quyền lực của các đại cường. Truyền thông Việt Nam, nhờ sự bật đèn xanh của Ban Tuyên Giáo T.Ư., nói rằng Hoa Kỳ và thế giới rất trân trọng và kính nể Việt Nam! Hãy nhìn lại mình đi. Trong khi các dân tộc khác đang ra sức chạy đua thi tài, cạnh tranh với nhau về mọi lãnh vực thì Việt Nam như một đứa trẻ mới tập đi. Qua những bài nói chuyện của Tổng Thống Obama từ Hà Nội đến Sài gòn, ai ai cũng thấy rõ được điều đó. Ân cần, nâng đở và gây cảm tình nhằm mục đích lôi kéo không có nghĩa là kính trọng!

 

Thế giới có kính trọng Việt Nam vì thành tích nhân quyền tồi tệ nhất trong mười quốc gia đứng chót bảng hay không? Người viết bài này, như thường lệ, xin nhắn nhủ quí bạn đọc rằng nếu muốn kiểm chứng những sự kiện hoặc số liệu có nhắc đến trong bài viết, quí bạn vui lòng tìm cách vượt tường lửa hoặc tìm kiếm dữ liệu qua google v..v... Người viết không cung cấp nguồn (links) để tránh những nguồn thông tin này bị an ninh ngăn chận.

 

Tóm lại, trong Luật Hợp Quần, khi một cá thể đứng riêng rẽ một mình mà không có sự cam kết bảo vệ hoặc tôn trọng của quần thể chung quanh, sớm muộn gì cá thể đó cũng bị sáp nhập hay diệt vong.

 

Việt Nam như đã nói hoàn toàn không có bạn bè đồng minh, trừ một nước duy nhất là Trung Hoa Cộng Sản. Trung Hoa là quốc gia lân bang suốt mấy ngàn năm lúc nào cũng lăm le thôn tính Việt Nam. Trong cuộc chiến Việt-Trung năm 1979, báo đài trong cả nước ra rã hàng ngày “Trung Quốc là Kẻ Thù Truyền Kiếp” để khơi động lòng dân. Nay CSVN kết thân với “Kẻ Thù Truyền Kiếp” bằng 16 chữ vàng và 4 tốt, môi hở răng lạnh cho rạng ngời danh tiếng “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”. Hay là hội nghị Thành Đô ký kết năm 1990 sắp sửa đến hạn kỳ 30 năm rồi chăng?

 

Kết luận: Phán quyết của tòa Trọng Tài Thường Trực (PCA) đã mở ra cho Việt Nam một cơ hội vĩ đại để giữ nước. Khi quốc tế cùng lên tiếng phản đối Trung Cộng, Việt Nam phải mạnh dạn đứng lên cùng các lân bang Đông Nam Á cương quyết hành động, giữ lập trường không chấp nhận đường lưỡi bò, bảo vệ ngư dân và biển đảo. Cùng với sự yểm trợ của Hoa Kỳ, Nhật, Úc và Âu Châu... tạo sự Hợp Quần kềm chế mộng bành trướng của Trung Cộng. Việt Nam phải thật sự chuyển từ độc tài độc đảng sang dân chủ tự do thì mới mong đoàn kết được toàn dân chống ngoại xâm. Đó là xu hướng Biến Cải để Sinh Tồn. Và cuối cùng nhưng quan trọng nhất là Việt Nam phải có Sức Mạnh để bảo vệ Tổ Quốc. Muốn được vậy, Việt Nam phải tận diệt tham nhũng, trọng dụng nhân tài và tích cực vũ trang theo đường hướng kỹ thuật cao.

 

Nếu đảng Cộng Sản Việt Nam không làm được những điều trên, nhân dân sẽ đứng lên làm đúng vai trò của mình để bảo vệ Tổ Quốc và bầu lên một Quốc Hội cùng một chính quyền đích thực của Dân (người dân tự ứng cử), do Dân (người dân tự bầu cử) và vì Dân (người được dân bầu lên chỉ phục vụ nhân dân chứ không phục vụ đảng phái).

 

Quốc Phùng

 


.
.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.