Hôm nay,  

Chính Trị Cũng Chỉ Là Kinh Tế

07/09/201600:00:00(Xem: 7062)

..nền dân chủ chưa hoàn hảo và đầy tỳ vết vẫn là hệ thống chính trị ít tệ nhất..

Hôm mùng bốn vừa qua, đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo thất cử nặng ngay tại địa phương của bà Thủ tướng Angela Merkel, ở vùng Đông-Bắc của nước Đức. Nguyên nhân là sự chống đối chính sách rộng rãi tiếp nhận di dân của bà Merkel. Phản ứng đó cũng trở thành phổ biến tại nhiều nước Âu Châu khác, từ Hung qua Pháp, và ngay tại Hoa Kỳ này, như cuộc tranh cử Tổng thống đang cho thấy. Nhưng, vấn đề không chỉ là hồ sơ di dân mà còn là chuyện gì khác. Đó là mọi hệ thống chính trị đều dựa trên ba tầng hậu thuẫn của quần chúng ở dưới và chính sách kinh tế của từng lãnh tụ đều nhắm vào việc ban phát quyền lợi cho thành phần ủng hộ mình. Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu hiện tượng này để thấy ra ưu điểm của hệ thống dân chủ.

Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin kính chào tái ngộ chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, giữa bao tranh luận về chính sách di dân của cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ sẽ ngã ngũ đúng hai tháng nữa thì việc đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo CDU của Thủ tướng Đức Angela Merkel bị tuột xuống hạng ba trong cuộc bầu cử hôm Chủ Nhật mùng bốn tại địa hạt của bà Merkel khiến người ta càng chú ý đến hồ sơ di dân của các đảng phái cầm quyền. Thưa ông, phải chăng, trào lưu chống di dân đang có vẻ thắng thế tại Âu Châu và cả Hoa Kỳ này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ là cùng lúc, chúng ta cần làm sáng tỏ ba bốn vấn đề. Quả thật là từ nạn Tổng suy trầm năm 2008, tình hình kinh tế trở thành khó khăn hơn cho nhiều quốc gia Âu-Mỹ. Nhồi vào đó là vụ khủng hoảng vì di dân từ Trung Đông và nạn khủng bố trong gần hai năm qua càng khiến người dân của nhiều nước e ngại kẻ nhập cư xa lạ. Cho nên tại các nước như Hung, Pháp, Serbia và nay là Đức, ta thấy nổi lên phong trào chống di dân, chống tự do thương mại và chống cả hiện tượng toàn cầu hóa. Tại quốc gia hình thành từ di dân là Hoa Kỳ cũng vậy. Các chính đảng truyền thống đã từng lãnh đạo khối Tây phương đều bị lúng túng trước những trào lưu mới mà nếu gọi đó là kỳ thị cũng chưa chắc đã là đúng.

Nguyên Lam: Thưa ông Nghĩa, chúng ta khởi đi từ Hoa Kỳ và từ phản ứng chống di dân, rồi sẽ tìm hiểu thêm về ba bốn vấn đề mà ông vừa nhắc tới.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trước hết, qua 240 năm lập quốc, nước Mỹ này đã có nhiều đợt di dân khác nhau và đợt sau thường bị đợt trước nghi ngờ. Người gốc Anh nhập cư trước thì coi dân Scotch-Irish tới sau là phiêu lưu tứ chiếng. Kế đó, người gốc Tây Âu đã hội nhập với nhau thành dân Mỹ nói tiếng Anh thì thấy di dân từ Đông Âu hay Nam Âu là quá nghèo, quá bạo hoặc như người Do Thái là quá gian tham, v.v… Khi tới đây từ 40 năm trước, người Việt cũng có cảm giác là bị nghi ngờ kỳ thị, dù vẫn được nhiều người Mỹ khác tận tình giúp đỡ.

- Sự thật thì di dân tới sau thường nghèo hơn và mang theo sắc thái khác lạ. Chừng vài ba phần trăm có khi can tội phạm pháp trên đất nhập cư nên thiên hạ cứ chú ý tới họ mà quên đại đa số đã phấn đấu thành công. Họ phấn đấu để tiếp nhận những giá trị mới và dần dần hội nhập vào dòng chính của xã hội, với con cái thành đạt, nói Anh ngữ ngoài đời dù vẫn dùng tiếng Mẹ Đẻ trong nhà. Khi kinh tế khó khăn thì thành phần bần cùng ở dưới bị thiệt nhất và có vẻ nhạy cảm với lớp di dân mới. Nhưng giới ưu tú đã thành công lại quên chặng đường hội nhập gian nan của chính họ và của gia đình khi mới đặt chân lên nước Mỹ vài chục năm trước rồi gọi đó là kỳ thị.

Nguyên Lam: Nếu mình nhìn từ giác độ xã hội và trong trường kỳ thì quả thật là thế hệ tới sau phải chen chân vào đất mới, rồi mọi người đều thấy cuộc sống có cải thiện và sắc thái văn hóa của mình còn làm xã hội này thêm đa dạng phong phú. Nhưng thưa ông Nghĩa, nếu nhìn từ giác độ chính trị thì tại sao lại có chính sách rộng rãi tiếp nhận di dân và chính sách hạn chế hay sàng lọc di dân?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta đi vào cốt lõi của vấn đề khi nhìn vào hiện tượng tôi xin gọi là “phần bánh” chia cho tầng lớp hậu thuẫn của lãnh đạo. Tại Âu Châu, Hoa Kỳ hay nhiều xứ khác, ta có ba tầng chính sách di dân tùy theo thực tế về nhân khẩu, hoàn cảnh kinh tế và tùy theo tính toán chính trị. Thứ nhất là chính sách dễ dàng đón nhận di dân vì đấy là lực lượng sản xuất bổ xung cho quốc gia tiếp cư khi họ lao động, đóng thuế rồi con cái thành công sau khi là công dân. Thứ hai là chính sách chỉ nhận lao động nước ngoài mà không cho gia nhập quốc tịch, hay nhập tịch. Thứ ba mới là chính sách từ chối di dân. Trong cả ba trường hợp, tính toán chính trị của giới lãnh đạo là gì? Là xem di dân có đóng góp gì cho quyền lực của họ không?

- Nếu di dân trở thành công dân và dồn phiếu cho họ thì đấy là đóng góp. Nếu di dân không bầu cho họ lại dồn phiếu cho đối lập thì đấy là gánh nặng. Khi kinh tế sa sút, ngân sách bội chi thì giới chính trị không đợi sự thành đạt của thế hệ con cháu di dân mà nhìn ngay vào bài toán trước mắt. Bài toán đó là họ có thể thất cử. Các nước Âu-Mỹ đang bị bài toán ấy, chưa kể là trong tầng lớp di dân vẫn có nhiều người từ chối hội nhập, ghét văn hóa bản địa và tối thiểu là ngôn ngữ cũng không thèm sử dụng. Nạn khủng bố Hồi giáo cực đoan càng gây phản ứng e ngại và dẫn tới chính sách sàng lọc di dân vì lý do an ninh. Các chính đảng truyền thống, từ trung tả tới trung hữu, đều mất tín nhiệm vì sự nghi ngại của nhiều thành phần. Kẻ thành đạt sinh sống ở nơi an toàn không hiểu ra nỗi e ngại đó ở dưới mà gọi là kỳ thị thì cũng chẳng giải quyết được vấn đề.


Nguyên Lam: Ông vừa nói đến hai khái niệm trái ngược là “đóng góp” và “gánh nặng”, nhìn từ giác độ chính trị của nhà cầm quyền hay của giới lãnh đạo. Nguyên Lam xin đề nghị ông khai triển hiện tượng chính trị đó, nhưng nhìn từ lĩnh vực kinh tế.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta nên thấy rằng không cá nhân nào có thể lãnh đạo một mình. Lãnh tụ nào, dù là Chủ tịch Tập Cận Bình, Tổng thống Vladimir Putin hay Barack Obama hoặc hai chuẩn lãnh tụ là các ứng cử viên Hillary Clinton và Donald Trump tại Hoa Kỳ, đều phải cần quần chúng. Quần chúng này có thể là người bỏ phiếu, là cử tri đông đảo của một xứ dân chủ, hay đảng viên của một chế độ độc tài đảng trị. Nhưng đấy là quần chúng biểu hiện mà chưa hẳn là có thực quyền. Bên trong khối quần chúng này, một thành phần mới có ảnh hưởng hơn cả, các Trung ương Ủy viên trong đảng độc quyền hay thành phần nòng cốt có quyền lợi gắn bó với lãnh tụ. Lãnh tụ cần họ và họ cần lãnh tụ để bảo vệ quyền lợi của mình. Ở trên, chỉ có vài phần trăm gọi là nòng cốt mới thật sự có quyền. Trên cùng là Thường vụ Bộ Chính trị hay các đại gia của doanh trường và chính trường trong một xứ dân chủ.

- Tính toán chính trị của thiểu số trên thượng tầng là phải cầm quyền và muốn như vậy, phải củng cố quyền lợi cho thành phần nòng cốt ở chung quanh. Nhiều khi các chính sách kinh tế gọi là “ích quốc lợi dân” về hình thức chỉ là sự vun vén quyền lợi hay chia phần bánh cho thành phần cối lõi của mình. Trong một xứ độc tài thì đấy là các nhóm lợi ích, trong một xứ dân chủ, chính sách ấy có khi chỉ đem lợi ích cho thành phần này hay địa phương kia, tùy hoàn cảnh xã hội và chính trị vì vậy mới gây ra ấn tượng là bất ổn hay bất công.

Nguyên Lam: Khán thính giả của chúng ta có thể giật mình khi thấy như ông muốn đánh đồng cả hai chế độ độc tài và dân chủ khi cho rằng giới lãnh đạo hay các lãnh tụ của họ đều tính toán như nhau. Ông giải thích thế nào về hiện tượng đó?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ là thực tế của kinh tế và chính trị nó khác cái nhìn lạc quan thánh thiện của chúng ta và nếu hiểu được thực tế đó thì mình mới tránh được nạn lạm quyền, tham nhũng hay độc tài. Lãnh đạo một phong trào lý tưởng mà không có tiền gây dựng cơ sở, đào tạo cảm tình viên hay cán bộ và quảng bá chủ trương thì chẳng thể có quần chúng. Có quần chúng rồi, khi đấu tranh hay tranh cử, lãnh tụ cũng còn cần một bộ phận cốt lõi giúp mình thành công, và nhất là sau khi thành công là nắm quyền thì bộ phận cốt lõi này ikhông bước qua bên kia. Vì vậy, hệ thống chính trị nào cũng phải tìm ra sự ràng buộc, mà sự ràng buộc thực tế nhất vẫn là kinh tế. Khả năng diễn giải thực tế phũ phàng thành chủ trương thánh thiện là trách nhiệm của bộ phận cốt lõi này, và dân trí càng cao thì tình trạng ngoa ngụy nhập nhằng đó càng khó. Vì vậy, và đây mới là chuyện chính mà chúng ta cần chú ý: các lãnh tụ độc tài và chuyên quyền có thể tồn tại lâu hơn giới lãnh đạo dân chủ vì một nước dân chủ vẫn thường xuyên có bầu cử.

Nguyên Lam: Ông nói tới bầu cử thì ta hãy lấy trường hợp của một số quốc gia có bản chất độc tài dưới hình thức dân chủ, họ cũng có bầu cử vậy. Trường hợp của Việt Nam là một thí dụ. Ông giải thích thế nào về hiện tượng đó?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi rất cám ơn câu hỏi này vì nó giúp ta thấy ra sự thật. Không một ai lầm lẫn về bản chất của loại bầu cử mà ai cũng biết trước kết quả, kể cả lãnh tụ độc tài, vì là đảng cử cho dân bầu. Nhưng mục tiêu của bầu cử không nhằm đưa lên một tầng lớp lãnh đạo mới. Đấy là hệ thống lãnh đạo cũ, sẽ nhân danh kết quả gọi là bầu cử mà sàng lọc lại thành phần cốt lõi và chia chác lại những quyền lợi và ràng buộc để củng cố vị trí của lãnh đạo.

- Sau cùng, từ chuyện di dân là vấn đề nóng trong nhiều năm mà nhìn vào viễn ảnh mấy chục năm hay cả trăm năm thì ta thấy ra vài ba sự thật sau đây. Con người ta có thể nói điểu thiện mà vẫn làm việc ác. Chế độ dân chủ có khả năng ngăn ngừa được cái ác đó vì mở rộng cơ sở tham gia cho quần chúng đông đảo hơn, đó là thành phần cử tri. Dù thành phần quần chúng biểu hiện này thiếu thực quyền thì họ vẫn trực tiếp chi phối được thành phần có ảnh hưởng ở trên. Thí dụ dễ thấy và nóng bỏng chính là phản ứng nghi ngờ di dân của quần chúng lầm than đông đảo ở dưới. Bước kế tiếp, chế độ dân chủ cũng đặt ra quy luật bầu cử và nhiệm kỳ lãnh đạo khiến cho thành phần ta gọi là có ảnh hưởng phải thường xuyên tính toán lại, vài ba năm là lại có thể đổi ý, nếu không thì lãnh tụ sẽ thất cử!

- Trên cùng, qua từng đợt bầu cử và thay đổi chính sách, thành phần gọi là cốt lõi cũng thấy có đổi thay vì quyền lợi mà hết gắn bó với lãnh tụ ở trên. Những chuyển dịch ấy lại được truyền thông báo chí theo dõi và tường thuật, không nhất thiết là hợp ý lãnh tụ ở trên cùng. Nhờ vậy mà việc ban phát quyền lợi kinh tế không thu hẹp vào một thiểu số mà mở rộng hơn cho quần chúng ở dưới. Đấy mới là lý do vì sao nền dân chủ chưa hoàn hảo và đầy tỳ vết vẫn là hệ thống chính trị ít tệ nhất và nhờ đó tìm ra giải pháp kinh tế tốt đẹp hơn cho đa số.

Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do và Nguyên Lam xin cảm tạ chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa về bài phân tích lạnh mình này.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
Tôi là anh trưởng trong gia đình, với 9 đứa em cả trai lẫn gái, nên trách nhiệm thật khó khăn, từ nhân cách cho đến cuộc sống. Nhưng may mắn tôi gặp được những người anh ngoài xã hội để noi gương và học hỏi. Một trong số những nhân vật hiếm hoi đó, chính là anh Nguyễn Văn Tánh, người mà tôi đã có cơ hội được tiếp tay hỗ trợ và đồng hành cùng anh trong suốt 20 cuộc Diễn Hành Văn Hóa Quốc Tế Liên Hiệp Quốc tại thành phố New York từ 20 năm qua.
Tôi tha phương cầu thực gần như trọn kiếp (và may mắn lạc bước đến những nơi không thiếu bơ thừa sữa cặn) nên bất ngờ nhìn thấy mảnh đời cùng quẫn thì không khỏi chạnh lòng. Nghe tiếng mời chào khẩn thiết, nhìn những khuôn mặt khẩn cầu của đồng bào mình mà muốn ứa nước mắt.
Các định kiến tai hại đối với các phụ nữ Á Châu trong văn hóa đại chúng của Mỹ đã có từ ít nhất thế kỷ thứ 19. Từ đó, các nhà truyền giáo và binh sĩ Mỹ tại Á Châu đã xem phụ nữ mà họ gặp đó như là ngoại lai và dễ tùng phục. Các định kiến này đã ảnh hưởng luật di trú đầu tiên của Hoa Kỳ dựa vào chủng tộc, Đạo Luật 1875 Page Act, ngăn cản các phụ nữ Trung Quốc vào Hoa Kỳ. Giả thuyết chính thức là rằng, ngoại trừ được chứng minh ngược lại, các phụ nữ TQ tìm cách vào Hoa Kỳ đã thiếu tư cách đạo đức và là những gái mại dâm. Trên thực tế, nhiều người là vợ tìm cách đoàn tụ với những ông chồng là những người đã đến Hoa Kỳ trước đó. Khoảng cùng thời gian đó, các phụ nữ TQ tại San Francisco cũng bị làm dê tế thần bởi các viên chức y tế địa phương là những người sợ rằng họ sẽ lây truyền các bịnh lây lan qua đường tình dục cho các đàn ông da trắng, là những người sau đó sẽ lây lan cho các bà vợ của họ. Vào giữa thế kỷ 20, các căn cứ chiến tranh và quân sự của Hoa Kỳ tại TQ, Nhật, Phi Luật Tân,
Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Thiện Nhân, Nguyễn Hòa Bình, Nguyễn Xuân Phúc … quả đúng là những kẻ thuộc giới ăn trên ngồi trốc. Họ là những hạt giống đỏ được gieo trồng từ miền Bắc, và đã ươm mầm thành cây. Loại cây này, học giả Phan Khôi gọi một cách lịch sự là cây Cộng Sản. Còn dân gian thì gọi là cây cứt lợn!
Nếu đảng đủ can đảm và ông Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng còn đủ bản lĩnh của một Lãnh đạo gương mẫu trong công tác phòng, chống tham nhũng thì hãy công khai cho dân biết Tổ chức Thanh niên của đảng đã làm được những gì cho dân cho nước trong 90 năm qua. Hay ngót 7 triệu Đoàn viên TNCS chẳng làm được trò trống gì, ngoải vai trò tay sai đã tuyệt đối trung thành với đảng và với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh?
Adam Smith và Karl Marx cùng được gọi chung là kinh tế cổ điển (classical economy) tức là lao động (labour) tạo ra giá trị (value.) Khác ở chổ Smith quan niệm thị trường tự do giúp mọi người hưởng thụ giá trị lao động còn Karl Marx lên án giá trị lao động của công nhân bị tư bản bóc lột. Vào đầu thế kỷ thứ 20 xuất hiện một cách nhìn mới là giá trị (value) do nơi tiện ích (utility) thay vì từ lao động (labour). Thí dụ một người đang khát uống ly nước đầu thì thật ngon, ly thứ nhì vừa vừa còn ly thứ ba đầy bụng nuốt không vô, tức là giá trị của mỗi ly nước giảm khi nhu cầu tiện ích hạ thấp. Quan điểm này gọi là Giá Trị Biên Tế hay Marginal Value.
Cùng với tác phẩm của Dương Thu Hương-"Những Thiên Đường Mù", Trần Mạnh Hão-"Ly Thân", Bảo Ninh-"Nỗi buồn Chiến tranh", Phạm Thị Hoài-"Thiên sứ", "Tướng về hưu"của Nguyễn Huy Thiệp đã tạo nên dòng văn học phản kháng.
Và cũng có thể biết thêm rằng, nếu tổng thống Franklin Roosevelt từng ngồi xe lăn để lãnh đạo nước Mỹ suốt 12 năm và bảo vệ thế giới tự do, mang lại chiến thắng cho phe đồng minh trong Đệ Nhị Thế Chiến thì thể chất của tổng thống Joe Biden không phải là điều để người ta bàn luận nhiều như vậy.
Người thanh niên da trắng vội vã bước ra khỏi tiệm massage thì chạm mặt Elcias đang đi tới. Ngó anh, hắn chẳng nói lời nào, chĩa thẳng khẩu súng nổ ba hay bốn phát đạn, không biết đang còn cầm trên tay hay vừa móc ra. Elcias thấy chẳng còn điều khiển được cơ thể, mơ màng, như muốn bay lên cao tựa cái bong bóng rực rỡ màu sắc mà mẹ anh đã treo trong ngày sinh nhật đầu tiên và duy nhất mà anh từng có khi tròn mười tuổi. Rồi anh cảm thấy như vợ con anh đang nắm tay mình kéo lại, không để anh bay lên.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.