Hôm nay,  

Chính Trị Cũng Chỉ Là Kinh Tế

07/09/201600:00:00(Xem: 7031)

..nền dân chủ chưa hoàn hảo và đầy tỳ vết vẫn là hệ thống chính trị ít tệ nhất..

Hôm mùng bốn vừa qua, đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo thất cử nặng ngay tại địa phương của bà Thủ tướng Angela Merkel, ở vùng Đông-Bắc của nước Đức. Nguyên nhân là sự chống đối chính sách rộng rãi tiếp nhận di dân của bà Merkel. Phản ứng đó cũng trở thành phổ biến tại nhiều nước Âu Châu khác, từ Hung qua Pháp, và ngay tại Hoa Kỳ này, như cuộc tranh cử Tổng thống đang cho thấy. Nhưng, vấn đề không chỉ là hồ sơ di dân mà còn là chuyện gì khác. Đó là mọi hệ thống chính trị đều dựa trên ba tầng hậu thuẫn của quần chúng ở dưới và chính sách kinh tế của từng lãnh tụ đều nhắm vào việc ban phát quyền lợi cho thành phần ủng hộ mình. Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu hiện tượng này để thấy ra ưu điểm của hệ thống dân chủ.

Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin kính chào tái ngộ chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, giữa bao tranh luận về chính sách di dân của cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ sẽ ngã ngũ đúng hai tháng nữa thì việc đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo CDU của Thủ tướng Đức Angela Merkel bị tuột xuống hạng ba trong cuộc bầu cử hôm Chủ Nhật mùng bốn tại địa hạt của bà Merkel khiến người ta càng chú ý đến hồ sơ di dân của các đảng phái cầm quyền. Thưa ông, phải chăng, trào lưu chống di dân đang có vẻ thắng thế tại Âu Châu và cả Hoa Kỳ này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ là cùng lúc, chúng ta cần làm sáng tỏ ba bốn vấn đề. Quả thật là từ nạn Tổng suy trầm năm 2008, tình hình kinh tế trở thành khó khăn hơn cho nhiều quốc gia Âu-Mỹ. Nhồi vào đó là vụ khủng hoảng vì di dân từ Trung Đông và nạn khủng bố trong gần hai năm qua càng khiến người dân của nhiều nước e ngại kẻ nhập cư xa lạ. Cho nên tại các nước như Hung, Pháp, Serbia và nay là Đức, ta thấy nổi lên phong trào chống di dân, chống tự do thương mại và chống cả hiện tượng toàn cầu hóa. Tại quốc gia hình thành từ di dân là Hoa Kỳ cũng vậy. Các chính đảng truyền thống đã từng lãnh đạo khối Tây phương đều bị lúng túng trước những trào lưu mới mà nếu gọi đó là kỳ thị cũng chưa chắc đã là đúng.

Nguyên Lam: Thưa ông Nghĩa, chúng ta khởi đi từ Hoa Kỳ và từ phản ứng chống di dân, rồi sẽ tìm hiểu thêm về ba bốn vấn đề mà ông vừa nhắc tới.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trước hết, qua 240 năm lập quốc, nước Mỹ này đã có nhiều đợt di dân khác nhau và đợt sau thường bị đợt trước nghi ngờ. Người gốc Anh nhập cư trước thì coi dân Scotch-Irish tới sau là phiêu lưu tứ chiếng. Kế đó, người gốc Tây Âu đã hội nhập với nhau thành dân Mỹ nói tiếng Anh thì thấy di dân từ Đông Âu hay Nam Âu là quá nghèo, quá bạo hoặc như người Do Thái là quá gian tham, v.v… Khi tới đây từ 40 năm trước, người Việt cũng có cảm giác là bị nghi ngờ kỳ thị, dù vẫn được nhiều người Mỹ khác tận tình giúp đỡ.

- Sự thật thì di dân tới sau thường nghèo hơn và mang theo sắc thái khác lạ. Chừng vài ba phần trăm có khi can tội phạm pháp trên đất nhập cư nên thiên hạ cứ chú ý tới họ mà quên đại đa số đã phấn đấu thành công. Họ phấn đấu để tiếp nhận những giá trị mới và dần dần hội nhập vào dòng chính của xã hội, với con cái thành đạt, nói Anh ngữ ngoài đời dù vẫn dùng tiếng Mẹ Đẻ trong nhà. Khi kinh tế khó khăn thì thành phần bần cùng ở dưới bị thiệt nhất và có vẻ nhạy cảm với lớp di dân mới. Nhưng giới ưu tú đã thành công lại quên chặng đường hội nhập gian nan của chính họ và của gia đình khi mới đặt chân lên nước Mỹ vài chục năm trước rồi gọi đó là kỳ thị.

Nguyên Lam: Nếu mình nhìn từ giác độ xã hội và trong trường kỳ thì quả thật là thế hệ tới sau phải chen chân vào đất mới, rồi mọi người đều thấy cuộc sống có cải thiện và sắc thái văn hóa của mình còn làm xã hội này thêm đa dạng phong phú. Nhưng thưa ông Nghĩa, nếu nhìn từ giác độ chính trị thì tại sao lại có chính sách rộng rãi tiếp nhận di dân và chính sách hạn chế hay sàng lọc di dân?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta đi vào cốt lõi của vấn đề khi nhìn vào hiện tượng tôi xin gọi là “phần bánh” chia cho tầng lớp hậu thuẫn của lãnh đạo. Tại Âu Châu, Hoa Kỳ hay nhiều xứ khác, ta có ba tầng chính sách di dân tùy theo thực tế về nhân khẩu, hoàn cảnh kinh tế và tùy theo tính toán chính trị. Thứ nhất là chính sách dễ dàng đón nhận di dân vì đấy là lực lượng sản xuất bổ xung cho quốc gia tiếp cư khi họ lao động, đóng thuế rồi con cái thành công sau khi là công dân. Thứ hai là chính sách chỉ nhận lao động nước ngoài mà không cho gia nhập quốc tịch, hay nhập tịch. Thứ ba mới là chính sách từ chối di dân. Trong cả ba trường hợp, tính toán chính trị của giới lãnh đạo là gì? Là xem di dân có đóng góp gì cho quyền lực của họ không?

- Nếu di dân trở thành công dân và dồn phiếu cho họ thì đấy là đóng góp. Nếu di dân không bầu cho họ lại dồn phiếu cho đối lập thì đấy là gánh nặng. Khi kinh tế sa sút, ngân sách bội chi thì giới chính trị không đợi sự thành đạt của thế hệ con cháu di dân mà nhìn ngay vào bài toán trước mắt. Bài toán đó là họ có thể thất cử. Các nước Âu-Mỹ đang bị bài toán ấy, chưa kể là trong tầng lớp di dân vẫn có nhiều người từ chối hội nhập, ghét văn hóa bản địa và tối thiểu là ngôn ngữ cũng không thèm sử dụng. Nạn khủng bố Hồi giáo cực đoan càng gây phản ứng e ngại và dẫn tới chính sách sàng lọc di dân vì lý do an ninh. Các chính đảng truyền thống, từ trung tả tới trung hữu, đều mất tín nhiệm vì sự nghi ngại của nhiều thành phần. Kẻ thành đạt sinh sống ở nơi an toàn không hiểu ra nỗi e ngại đó ở dưới mà gọi là kỳ thị thì cũng chẳng giải quyết được vấn đề.


Nguyên Lam: Ông vừa nói đến hai khái niệm trái ngược là “đóng góp” và “gánh nặng”, nhìn từ giác độ chính trị của nhà cầm quyền hay của giới lãnh đạo. Nguyên Lam xin đề nghị ông khai triển hiện tượng chính trị đó, nhưng nhìn từ lĩnh vực kinh tế.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta nên thấy rằng không cá nhân nào có thể lãnh đạo một mình. Lãnh tụ nào, dù là Chủ tịch Tập Cận Bình, Tổng thống Vladimir Putin hay Barack Obama hoặc hai chuẩn lãnh tụ là các ứng cử viên Hillary Clinton và Donald Trump tại Hoa Kỳ, đều phải cần quần chúng. Quần chúng này có thể là người bỏ phiếu, là cử tri đông đảo của một xứ dân chủ, hay đảng viên của một chế độ độc tài đảng trị. Nhưng đấy là quần chúng biểu hiện mà chưa hẳn là có thực quyền. Bên trong khối quần chúng này, một thành phần mới có ảnh hưởng hơn cả, các Trung ương Ủy viên trong đảng độc quyền hay thành phần nòng cốt có quyền lợi gắn bó với lãnh tụ. Lãnh tụ cần họ và họ cần lãnh tụ để bảo vệ quyền lợi của mình. Ở trên, chỉ có vài phần trăm gọi là nòng cốt mới thật sự có quyền. Trên cùng là Thường vụ Bộ Chính trị hay các đại gia của doanh trường và chính trường trong một xứ dân chủ.

- Tính toán chính trị của thiểu số trên thượng tầng là phải cầm quyền và muốn như vậy, phải củng cố quyền lợi cho thành phần nòng cốt ở chung quanh. Nhiều khi các chính sách kinh tế gọi là “ích quốc lợi dân” về hình thức chỉ là sự vun vén quyền lợi hay chia phần bánh cho thành phần cối lõi của mình. Trong một xứ độc tài thì đấy là các nhóm lợi ích, trong một xứ dân chủ, chính sách ấy có khi chỉ đem lợi ích cho thành phần này hay địa phương kia, tùy hoàn cảnh xã hội và chính trị vì vậy mới gây ra ấn tượng là bất ổn hay bất công.

Nguyên Lam: Khán thính giả của chúng ta có thể giật mình khi thấy như ông muốn đánh đồng cả hai chế độ độc tài và dân chủ khi cho rằng giới lãnh đạo hay các lãnh tụ của họ đều tính toán như nhau. Ông giải thích thế nào về hiện tượng đó?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ là thực tế của kinh tế và chính trị nó khác cái nhìn lạc quan thánh thiện của chúng ta và nếu hiểu được thực tế đó thì mình mới tránh được nạn lạm quyền, tham nhũng hay độc tài. Lãnh đạo một phong trào lý tưởng mà không có tiền gây dựng cơ sở, đào tạo cảm tình viên hay cán bộ và quảng bá chủ trương thì chẳng thể có quần chúng. Có quần chúng rồi, khi đấu tranh hay tranh cử, lãnh tụ cũng còn cần một bộ phận cốt lõi giúp mình thành công, và nhất là sau khi thành công là nắm quyền thì bộ phận cốt lõi này ikhông bước qua bên kia. Vì vậy, hệ thống chính trị nào cũng phải tìm ra sự ràng buộc, mà sự ràng buộc thực tế nhất vẫn là kinh tế. Khả năng diễn giải thực tế phũ phàng thành chủ trương thánh thiện là trách nhiệm của bộ phận cốt lõi này, và dân trí càng cao thì tình trạng ngoa ngụy nhập nhằng đó càng khó. Vì vậy, và đây mới là chuyện chính mà chúng ta cần chú ý: các lãnh tụ độc tài và chuyên quyền có thể tồn tại lâu hơn giới lãnh đạo dân chủ vì một nước dân chủ vẫn thường xuyên có bầu cử.

Nguyên Lam: Ông nói tới bầu cử thì ta hãy lấy trường hợp của một số quốc gia có bản chất độc tài dưới hình thức dân chủ, họ cũng có bầu cử vậy. Trường hợp của Việt Nam là một thí dụ. Ông giải thích thế nào về hiện tượng đó?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi rất cám ơn câu hỏi này vì nó giúp ta thấy ra sự thật. Không một ai lầm lẫn về bản chất của loại bầu cử mà ai cũng biết trước kết quả, kể cả lãnh tụ độc tài, vì là đảng cử cho dân bầu. Nhưng mục tiêu của bầu cử không nhằm đưa lên một tầng lớp lãnh đạo mới. Đấy là hệ thống lãnh đạo cũ, sẽ nhân danh kết quả gọi là bầu cử mà sàng lọc lại thành phần cốt lõi và chia chác lại những quyền lợi và ràng buộc để củng cố vị trí của lãnh đạo.

- Sau cùng, từ chuyện di dân là vấn đề nóng trong nhiều năm mà nhìn vào viễn ảnh mấy chục năm hay cả trăm năm thì ta thấy ra vài ba sự thật sau đây. Con người ta có thể nói điểu thiện mà vẫn làm việc ác. Chế độ dân chủ có khả năng ngăn ngừa được cái ác đó vì mở rộng cơ sở tham gia cho quần chúng đông đảo hơn, đó là thành phần cử tri. Dù thành phần quần chúng biểu hiện này thiếu thực quyền thì họ vẫn trực tiếp chi phối được thành phần có ảnh hưởng ở trên. Thí dụ dễ thấy và nóng bỏng chính là phản ứng nghi ngờ di dân của quần chúng lầm than đông đảo ở dưới. Bước kế tiếp, chế độ dân chủ cũng đặt ra quy luật bầu cử và nhiệm kỳ lãnh đạo khiến cho thành phần ta gọi là có ảnh hưởng phải thường xuyên tính toán lại, vài ba năm là lại có thể đổi ý, nếu không thì lãnh tụ sẽ thất cử!

- Trên cùng, qua từng đợt bầu cử và thay đổi chính sách, thành phần gọi là cốt lõi cũng thấy có đổi thay vì quyền lợi mà hết gắn bó với lãnh tụ ở trên. Những chuyển dịch ấy lại được truyền thông báo chí theo dõi và tường thuật, không nhất thiết là hợp ý lãnh tụ ở trên cùng. Nhờ vậy mà việc ban phát quyền lợi kinh tế không thu hẹp vào một thiểu số mà mở rộng hơn cho quần chúng ở dưới. Đấy mới là lý do vì sao nền dân chủ chưa hoàn hảo và đầy tỳ vết vẫn là hệ thống chính trị ít tệ nhất và nhờ đó tìm ra giải pháp kinh tế tốt đẹp hơn cho đa số.

Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do và Nguyên Lam xin cảm tạ chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa về bài phân tích lạnh mình này.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong khi tham vọng kiểm soát của chế độ toàn trị vẫn như cũ, có một số khác biệt giữa những nỗ lực của Mao và Tập Cận Bình. “Tư tưởng của Tập Cận Bình là một thay thế nhạt màu cho Sách Đỏ của Mao. Tập Cận Bình đã không thể đưa ra một ý thức hệ mạch lạc để truyền cảm hứng cho sự cuồng tín trong những người theo ông, khác một chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc chung chung. Mặt khác, Tập có các công cụ công nghệ khả dụng mà đơn giản là không áp dụng cho những nhà độc tài trong thế kỷ 20. Hệ thống tín dụng xã hội kết hợp tất cả các phương pháp của thông minh nhân tạo, dữ liệu quy mô, cảm biến lan tỏa và đặt các phương tiện này vào trong tay nhà nước Trung Quốc. Cả Stalin và Mao đều không thể kiểm soát trực tiếp các phong trào hàng ngày, lời nói và giao dịch của từng đối tượng theo cách mà đảng Trung Quốc về mặt lý thuyết có thể làm ngày nay.
Một dự luật đã được đưa ra Quốc Hội Nhân Dân của Đảng Cộng Sản Trung Hoa (CSTH) ngày 22 tháng 5 năm 2020 tại Bắc Kinh, và đúng một tuần lễ sau, dự luật này đã được nhanh chóng thông qua vả trở thành Đạo Luật An Ninh Quốc Gia (ĐLANQG) về Hồng Kông vào ngày 29 tháng 5. Khi đưa ra Quốc Hội Nhân Dân để bàn thảo và thông qua, dự luật này gồm 7 điểm chính, trong đó ba điểm quan trọng nhất để đối phó và triệt hạ quyền tự chủ cùa Hồng Kông là điều số 2, số 4, và số 6. Theo đó, Bắc Kinh sẽ ngăn chặn tất cả các nguồn yểm trợ từ bên ngoài vào Hồng Kông; sẽ sử dụng được các lực lượng đàn áp từ Bắc Kinh để dập tắt các cuộc biểu tình, những người tham dự biểu tình có thể quy tội phản quốc, ly khai; và từ đó Bắc Kinh sẽ khai triển ra những đạo luật khác để thực hiện các mưu đồ trên.
Đảng Cộng Sản Việt Nam có truyền thống bán nước từ Hồ Chí Minh cho đến ngày nay. Người bán nước số một là Nguyễn Phú Trọng, bán nước một cách tinh vi, từ những bí mật nầy đến những bí mật khác để lừa bịp nhân dân. Đã đặt Việt Nam lệ thuộc vào Trung Cộng, xem như thời kỳ Bắc thuộc lần thứ năm. Tuổi tác đã cao, sức khỏe yếu kém mà muốn ôm cái ghế quyền lực suốt đời. Thủ hạ Nguyễn Hồng Diên thăm dò dư luận bằng những lời lẽ nâng bi quá đáng, làm phản tác dụng, gây phẩn nộ trong quần chúng. Tóm lại, Nguyễn Phú Trọng và đảng của ông đã đặt Việt Nam lệ thuộc vào Trung Cộng, đó là tội đồ của dân tộc.
Khi còn trẻ, đôi lúc, tôi cũng (thoáng) có ý định sẽ trở thành một người cầm bút. Ở một xứ sở mà phần lớn người ta đều cầm cuốc, cầm búa, cầm kìm hay cầm súng… mà định cầm viết thì quả là một chuyện khá viển vông – nếu không muốn nói là hơi xa xỉ. Lúc không còn trẻ (nữa) tôi mới ngộ ra rằng: bút viết nó chọn người, chứ không phải là ngược lại – trừ khi mình cứ cầm đại thì không kể. Tôi không được (hay bị) lựa và cũng không có máu liều – như phần lớn quí vị trong Hội Nhà Văn Việt Nam Đương Đại – nên chuyện viết lách kể như … trớt quớt!
Nuôi dưỡng nền dân chủ giống như kẻ trồng cây: khi còn là hạt giống phải chống đỡ quạ tha gà mổ; cây còn non trẻ cần ngăn ngừa sâu bọ; đến lúc trưởng thành già nua phải chặt bớt những cành lớn không thì một cơn bão lớn sẽ làm đổ ngã thân cây. Việt Nam chưa có dân chủ nên tranh đấu đòi dân chủ. Nền dân chủ non trẻ tại Phi Luật Tân bị đe dọa trở lại độc tài. Dân chủ ở Mỹ trưởng thành lâu đời nay lại nảy sinh ra dấu hiệu già nua thoái hóa thành một hình dạng gì chưa nhận biết được.
Xét về cao độ thì Sơn Núi (Nguyễn Đức Sơn) ở thấp hơn nhiều bạn đồng nghiệp của mình – như Bùi Minh Quốc, Hà Sĩ Phu, Mai Thái Lĩnh, Tiêu Dao Bảo Cự… – xa lắc. Những nhân vật này đều có thời là biên tập viên của tạp chí Lang Biang, tờ báo (đã bị đóng cửa) này lấy tên theo vùng cao nguyên lâm Viên mà họ đang sinh sống. Đỉnh Lâm Viên, ở Đà Lạt, cao hơn hai ngàn mét lận. Từ đây, muốn leo lên trời (để đái, hay làm gì tùy thích) còn tiện hơn nhiều. Ngoài lợi thế nhỏ nhặt này ra, những cư dân ở miền sơn cước gặp phải toàn là những điều (vô cùng) bất tiện. Họ xa cách (mịt mù) với thế giới văn minh, ở những đô thị miền xuôi. Tôm cá hì hục chở lên đến được đến cao nguyên (thường) đã bị ươn, và thông tin khi nhận được thì (ôi thôi) hoàn toàn đã cũ.
Giữa mùa đại dịch COVID-19, tại những buổi tường trình mỗi ngày, Tổng thống Mỹ Donald Trump và Phó Tổng thống Mike Pence không ngớt tiên đoán sự lớn mạnh vượt bực của kinh tế quốc gia Hoa Kỳ sau khi tình hình dịch tễ lắng đọng. Hai ông nhấn mạnh rằng kinh tế Mỹ hậu-COVID-19 sẽ tìm lại thế quân bằng sau những chao đảo khiếp hãi khiến cả 40 triệu nhân công thất nghiệp trong vòng vỏn vẹn ba tháng trời. Đầu tháng Sáu, hy vọng bắt đầu le lói khi guồng máy kinh tế rục rịch mở cửa lại, ai nấy trông đợi ánh sáng tỏa lớn cuối đường hầm.Tuy nhiên, mặc dù người ta có quyền hy vọng vào sự thịnh vượng chung, nhưng sự thật là đối với các thành phần ít may mắn hơn trong xã hội (vâng, phần đông trong đó là những sắc dân da màu thiểu số), khó khăn kinh tế gần như là một điều chắc chắn. Ai cũng tưởng sau khi COVID-19 giáng một đòn chí tử lên kinh tế Hoa Kỳ, thì khoảng cách chênh lệch giữa hai thành phần giàu-nghèo sẽ phần nào thu hẹp, nhưng oái oăm thay, mọi bằng chứng cho thấy sự khác biệt ấy
Do đó, chỉ khi nào người dân được quyền trực tiếp chọn Lãnh đạo qua bầu cử tự do, công bằng và dân chủ thì khi ấy những kẻ bất tài, có thành tích xấu, hay chỉ biết thu vét cho đầy túi tham, lợi ích nhóm hay làm tay sai cho Ngoại bang mới bị loại khỏi đội ngũ cầm quyền. Ngược lại, nếu vẫn tiếp tục chọn người theo thông lệ “đảng cử dân bầu” hay “đảng chọn, cán bộ bỏ phiếu” thì có trăm năm, nhân dân Việt Nam vẫn chưa tìm thấy ánh sáng ở cuối đường hầm.
Khi bỏ nước ra đi tìm tự do, tất cả bậc cha mẹ Việt Nam đều nghĩ đến tương lai của các đứa con mình.Các con cần phải học, học và học… Sự thành đạt của con em chúng ta trong học vấn được xem như là sự thành công và niềm hảnh diện chung của cha mẹ Viêt Nam trên miền đất tự do.
Thây xác trưng ra đó / Còn chưa đủ thối inh? / Mua chi thêm bầy ngựa / Cứt vung cả Ba Đình! - Trần Bang
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.