Hôm nay,  

Chính Trị Cũng Chỉ Là Kinh Tế

07/09/201600:00:00(Xem: 7108)

..nền dân chủ chưa hoàn hảo và đầy tỳ vết vẫn là hệ thống chính trị ít tệ nhất..

Hôm mùng bốn vừa qua, đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo thất cử nặng ngay tại địa phương của bà Thủ tướng Angela Merkel, ở vùng Đông-Bắc của nước Đức. Nguyên nhân là sự chống đối chính sách rộng rãi tiếp nhận di dân của bà Merkel. Phản ứng đó cũng trở thành phổ biến tại nhiều nước Âu Châu khác, từ Hung qua Pháp, và ngay tại Hoa Kỳ này, như cuộc tranh cử Tổng thống đang cho thấy. Nhưng, vấn đề không chỉ là hồ sơ di dân mà còn là chuyện gì khác. Đó là mọi hệ thống chính trị đều dựa trên ba tầng hậu thuẫn của quần chúng ở dưới và chính sách kinh tế của từng lãnh tụ đều nhắm vào việc ban phát quyền lợi cho thành phần ủng hộ mình. Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu hiện tượng này để thấy ra ưu điểm của hệ thống dân chủ.

Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin kính chào tái ngộ chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, giữa bao tranh luận về chính sách di dân của cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ sẽ ngã ngũ đúng hai tháng nữa thì việc đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo CDU của Thủ tướng Đức Angela Merkel bị tuột xuống hạng ba trong cuộc bầu cử hôm Chủ Nhật mùng bốn tại địa hạt của bà Merkel khiến người ta càng chú ý đến hồ sơ di dân của các đảng phái cầm quyền. Thưa ông, phải chăng, trào lưu chống di dân đang có vẻ thắng thế tại Âu Châu và cả Hoa Kỳ này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ là cùng lúc, chúng ta cần làm sáng tỏ ba bốn vấn đề. Quả thật là từ nạn Tổng suy trầm năm 2008, tình hình kinh tế trở thành khó khăn hơn cho nhiều quốc gia Âu-Mỹ. Nhồi vào đó là vụ khủng hoảng vì di dân từ Trung Đông và nạn khủng bố trong gần hai năm qua càng khiến người dân của nhiều nước e ngại kẻ nhập cư xa lạ. Cho nên tại các nước như Hung, Pháp, Serbia và nay là Đức, ta thấy nổi lên phong trào chống di dân, chống tự do thương mại và chống cả hiện tượng toàn cầu hóa. Tại quốc gia hình thành từ di dân là Hoa Kỳ cũng vậy. Các chính đảng truyền thống đã từng lãnh đạo khối Tây phương đều bị lúng túng trước những trào lưu mới mà nếu gọi đó là kỳ thị cũng chưa chắc đã là đúng.

Nguyên Lam: Thưa ông Nghĩa, chúng ta khởi đi từ Hoa Kỳ và từ phản ứng chống di dân, rồi sẽ tìm hiểu thêm về ba bốn vấn đề mà ông vừa nhắc tới.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trước hết, qua 240 năm lập quốc, nước Mỹ này đã có nhiều đợt di dân khác nhau và đợt sau thường bị đợt trước nghi ngờ. Người gốc Anh nhập cư trước thì coi dân Scotch-Irish tới sau là phiêu lưu tứ chiếng. Kế đó, người gốc Tây Âu đã hội nhập với nhau thành dân Mỹ nói tiếng Anh thì thấy di dân từ Đông Âu hay Nam Âu là quá nghèo, quá bạo hoặc như người Do Thái là quá gian tham, v.v… Khi tới đây từ 40 năm trước, người Việt cũng có cảm giác là bị nghi ngờ kỳ thị, dù vẫn được nhiều người Mỹ khác tận tình giúp đỡ.

- Sự thật thì di dân tới sau thường nghèo hơn và mang theo sắc thái khác lạ. Chừng vài ba phần trăm có khi can tội phạm pháp trên đất nhập cư nên thiên hạ cứ chú ý tới họ mà quên đại đa số đã phấn đấu thành công. Họ phấn đấu để tiếp nhận những giá trị mới và dần dần hội nhập vào dòng chính của xã hội, với con cái thành đạt, nói Anh ngữ ngoài đời dù vẫn dùng tiếng Mẹ Đẻ trong nhà. Khi kinh tế khó khăn thì thành phần bần cùng ở dưới bị thiệt nhất và có vẻ nhạy cảm với lớp di dân mới. Nhưng giới ưu tú đã thành công lại quên chặng đường hội nhập gian nan của chính họ và của gia đình khi mới đặt chân lên nước Mỹ vài chục năm trước rồi gọi đó là kỳ thị.

Nguyên Lam: Nếu mình nhìn từ giác độ xã hội và trong trường kỳ thì quả thật là thế hệ tới sau phải chen chân vào đất mới, rồi mọi người đều thấy cuộc sống có cải thiện và sắc thái văn hóa của mình còn làm xã hội này thêm đa dạng phong phú. Nhưng thưa ông Nghĩa, nếu nhìn từ giác độ chính trị thì tại sao lại có chính sách rộng rãi tiếp nhận di dân và chính sách hạn chế hay sàng lọc di dân?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta đi vào cốt lõi của vấn đề khi nhìn vào hiện tượng tôi xin gọi là “phần bánh” chia cho tầng lớp hậu thuẫn của lãnh đạo. Tại Âu Châu, Hoa Kỳ hay nhiều xứ khác, ta có ba tầng chính sách di dân tùy theo thực tế về nhân khẩu, hoàn cảnh kinh tế và tùy theo tính toán chính trị. Thứ nhất là chính sách dễ dàng đón nhận di dân vì đấy là lực lượng sản xuất bổ xung cho quốc gia tiếp cư khi họ lao động, đóng thuế rồi con cái thành công sau khi là công dân. Thứ hai là chính sách chỉ nhận lao động nước ngoài mà không cho gia nhập quốc tịch, hay nhập tịch. Thứ ba mới là chính sách từ chối di dân. Trong cả ba trường hợp, tính toán chính trị của giới lãnh đạo là gì? Là xem di dân có đóng góp gì cho quyền lực của họ không?

- Nếu di dân trở thành công dân và dồn phiếu cho họ thì đấy là đóng góp. Nếu di dân không bầu cho họ lại dồn phiếu cho đối lập thì đấy là gánh nặng. Khi kinh tế sa sút, ngân sách bội chi thì giới chính trị không đợi sự thành đạt của thế hệ con cháu di dân mà nhìn ngay vào bài toán trước mắt. Bài toán đó là họ có thể thất cử. Các nước Âu-Mỹ đang bị bài toán ấy, chưa kể là trong tầng lớp di dân vẫn có nhiều người từ chối hội nhập, ghét văn hóa bản địa và tối thiểu là ngôn ngữ cũng không thèm sử dụng. Nạn khủng bố Hồi giáo cực đoan càng gây phản ứng e ngại và dẫn tới chính sách sàng lọc di dân vì lý do an ninh. Các chính đảng truyền thống, từ trung tả tới trung hữu, đều mất tín nhiệm vì sự nghi ngại của nhiều thành phần. Kẻ thành đạt sinh sống ở nơi an toàn không hiểu ra nỗi e ngại đó ở dưới mà gọi là kỳ thị thì cũng chẳng giải quyết được vấn đề.


Nguyên Lam: Ông vừa nói đến hai khái niệm trái ngược là “đóng góp” và “gánh nặng”, nhìn từ giác độ chính trị của nhà cầm quyền hay của giới lãnh đạo. Nguyên Lam xin đề nghị ông khai triển hiện tượng chính trị đó, nhưng nhìn từ lĩnh vực kinh tế.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta nên thấy rằng không cá nhân nào có thể lãnh đạo một mình. Lãnh tụ nào, dù là Chủ tịch Tập Cận Bình, Tổng thống Vladimir Putin hay Barack Obama hoặc hai chuẩn lãnh tụ là các ứng cử viên Hillary Clinton và Donald Trump tại Hoa Kỳ, đều phải cần quần chúng. Quần chúng này có thể là người bỏ phiếu, là cử tri đông đảo của một xứ dân chủ, hay đảng viên của một chế độ độc tài đảng trị. Nhưng đấy là quần chúng biểu hiện mà chưa hẳn là có thực quyền. Bên trong khối quần chúng này, một thành phần mới có ảnh hưởng hơn cả, các Trung ương Ủy viên trong đảng độc quyền hay thành phần nòng cốt có quyền lợi gắn bó với lãnh tụ. Lãnh tụ cần họ và họ cần lãnh tụ để bảo vệ quyền lợi của mình. Ở trên, chỉ có vài phần trăm gọi là nòng cốt mới thật sự có quyền. Trên cùng là Thường vụ Bộ Chính trị hay các đại gia của doanh trường và chính trường trong một xứ dân chủ.

- Tính toán chính trị của thiểu số trên thượng tầng là phải cầm quyền và muốn như vậy, phải củng cố quyền lợi cho thành phần nòng cốt ở chung quanh. Nhiều khi các chính sách kinh tế gọi là “ích quốc lợi dân” về hình thức chỉ là sự vun vén quyền lợi hay chia phần bánh cho thành phần cối lõi của mình. Trong một xứ độc tài thì đấy là các nhóm lợi ích, trong một xứ dân chủ, chính sách ấy có khi chỉ đem lợi ích cho thành phần này hay địa phương kia, tùy hoàn cảnh xã hội và chính trị vì vậy mới gây ra ấn tượng là bất ổn hay bất công.

Nguyên Lam: Khán thính giả của chúng ta có thể giật mình khi thấy như ông muốn đánh đồng cả hai chế độ độc tài và dân chủ khi cho rằng giới lãnh đạo hay các lãnh tụ của họ đều tính toán như nhau. Ông giải thích thế nào về hiện tượng đó?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ là thực tế của kinh tế và chính trị nó khác cái nhìn lạc quan thánh thiện của chúng ta và nếu hiểu được thực tế đó thì mình mới tránh được nạn lạm quyền, tham nhũng hay độc tài. Lãnh đạo một phong trào lý tưởng mà không có tiền gây dựng cơ sở, đào tạo cảm tình viên hay cán bộ và quảng bá chủ trương thì chẳng thể có quần chúng. Có quần chúng rồi, khi đấu tranh hay tranh cử, lãnh tụ cũng còn cần một bộ phận cốt lõi giúp mình thành công, và nhất là sau khi thành công là nắm quyền thì bộ phận cốt lõi này ikhông bước qua bên kia. Vì vậy, hệ thống chính trị nào cũng phải tìm ra sự ràng buộc, mà sự ràng buộc thực tế nhất vẫn là kinh tế. Khả năng diễn giải thực tế phũ phàng thành chủ trương thánh thiện là trách nhiệm của bộ phận cốt lõi này, và dân trí càng cao thì tình trạng ngoa ngụy nhập nhằng đó càng khó. Vì vậy, và đây mới là chuyện chính mà chúng ta cần chú ý: các lãnh tụ độc tài và chuyên quyền có thể tồn tại lâu hơn giới lãnh đạo dân chủ vì một nước dân chủ vẫn thường xuyên có bầu cử.

Nguyên Lam: Ông nói tới bầu cử thì ta hãy lấy trường hợp của một số quốc gia có bản chất độc tài dưới hình thức dân chủ, họ cũng có bầu cử vậy. Trường hợp của Việt Nam là một thí dụ. Ông giải thích thế nào về hiện tượng đó?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi rất cám ơn câu hỏi này vì nó giúp ta thấy ra sự thật. Không một ai lầm lẫn về bản chất của loại bầu cử mà ai cũng biết trước kết quả, kể cả lãnh tụ độc tài, vì là đảng cử cho dân bầu. Nhưng mục tiêu của bầu cử không nhằm đưa lên một tầng lớp lãnh đạo mới. Đấy là hệ thống lãnh đạo cũ, sẽ nhân danh kết quả gọi là bầu cử mà sàng lọc lại thành phần cốt lõi và chia chác lại những quyền lợi và ràng buộc để củng cố vị trí của lãnh đạo.

- Sau cùng, từ chuyện di dân là vấn đề nóng trong nhiều năm mà nhìn vào viễn ảnh mấy chục năm hay cả trăm năm thì ta thấy ra vài ba sự thật sau đây. Con người ta có thể nói điểu thiện mà vẫn làm việc ác. Chế độ dân chủ có khả năng ngăn ngừa được cái ác đó vì mở rộng cơ sở tham gia cho quần chúng đông đảo hơn, đó là thành phần cử tri. Dù thành phần quần chúng biểu hiện này thiếu thực quyền thì họ vẫn trực tiếp chi phối được thành phần có ảnh hưởng ở trên. Thí dụ dễ thấy và nóng bỏng chính là phản ứng nghi ngờ di dân của quần chúng lầm than đông đảo ở dưới. Bước kế tiếp, chế độ dân chủ cũng đặt ra quy luật bầu cử và nhiệm kỳ lãnh đạo khiến cho thành phần ta gọi là có ảnh hưởng phải thường xuyên tính toán lại, vài ba năm là lại có thể đổi ý, nếu không thì lãnh tụ sẽ thất cử!

- Trên cùng, qua từng đợt bầu cử và thay đổi chính sách, thành phần gọi là cốt lõi cũng thấy có đổi thay vì quyền lợi mà hết gắn bó với lãnh tụ ở trên. Những chuyển dịch ấy lại được truyền thông báo chí theo dõi và tường thuật, không nhất thiết là hợp ý lãnh tụ ở trên cùng. Nhờ vậy mà việc ban phát quyền lợi kinh tế không thu hẹp vào một thiểu số mà mở rộng hơn cho quần chúng ở dưới. Đấy mới là lý do vì sao nền dân chủ chưa hoàn hảo và đầy tỳ vết vẫn là hệ thống chính trị ít tệ nhất và nhờ đó tìm ra giải pháp kinh tế tốt đẹp hơn cho đa số.

Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do và Nguyên Lam xin cảm tạ chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa về bài phân tích lạnh mình này.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nội dung phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm ngày 27/08/2024 về đường lối khóa đảng XIV cho thấy ông không dám đi ra khỏi quỹ đạo một người Cộng sản bảo thủ để được tồn tại...
Kamala nhắc lại Donald Trump đã cảm ơn Tổng Thống Tập Cận Bình về những gì ông ta đã làm trong thời gian đại dịch COVID. Bà nhớ cả nội dung Trump đã viết trên Twitter: “Thank you, President Xi” và đọc lại cho chục triệu người dân Mỹ đang xem màn hình. “Khi chúng ta biết rằng Tập Cận Bình phải chịu trách nhiệm vì không cung cấp và cung cấp không đầy đủ cho chúng ta sự minh bạch về nguồn gốc của COVID.” Kamala nhắc lại cả việc Donald Trump đã mời Taliban đến David Camp, “là một nơi có ý nghĩa lịch sử đối với chúng ta, với tư cách là những người Mỹ, một nơi mà chúng ta tôn vinh tầm quan trọng của ngoại giao Hoa Kỳ, nơi chúng ta mời và tiếp đón các nhà lãnh đạo thế giới được kính trọng. Và cựu tổng thống này với tư cách là tổng thống đã mời họ đến David Camp vì ông ta, một lần nữa, không biết tầm quan trọng và trách nhiệm của tổng thống Hoa Kỳ. Và điều này quay trở lại vấn đề ông ta đã liên tục hạ thấp và coi thường các quân nhân của chúng ta, những người lính đã hy sinh...
Từ ngày nước Mỹ lập quốc, chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại bị đối thủ mang ra mổ xẻ, tấn công với những lời lẽ không phù hợp với tư cách một người tranh cử vị trí lãnh đạo quốc gia. Nhưng ngược lại, cũng chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại trở thành niềm hy vọng cho một đất nước đang đối đầu với mối nguy hiểm “duy nhất suốt 248 năm” (theo lời cựu Phó Tổng Thống Dick Chenny.) Đó là nụ cười của Kamala Harris – Một nụ cười đang ngày càng thay hình đổi dạng cuộc tranh cử tổng thống kinh điển của nước Mỹ.
Cựu Tổng Thống Donald Trump đã trình bầy kế hoạch kinh tế của ông tại Economic Club of New York trước đám đông các kinh tế gia, lãnh đạo doanh nghiệp và nhà báo vào 5-9-2024 vừa qua. Buổi nói chuyện này nằm trong chiến dịch tranh cử. Kế hoạch kinh tế trong nhiệm kỳ 2 nếu ông thắng cử bao gồm nhiều chính sách mà ông đã thi hành trong bốn năm đầu cầm quyền. Ông tuyên bố sẽ loại bỏ nhiều chương trình của chính quyền Biden. Ứng cử viên tổng thống của Cộng Hòa quảng cáo chương trình của ông với thuế nội địa thấp, thuế nhập cảng cao chưa từng thấy, giảm bớt luật lệ, và kinh tế phát triển mạnh. Nhưng nhiều chuyên viên đã nghi ngờ giá trị của chương trình kinh tế này. Nhiều người đã lên tiếng chỉ trích đề xuất kinh tế của Trump như chúng ta sẽ thấy trong những phần dưới đây của bài báo này.
Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 sắp tới không chỉ định hình tương lai chính trị của quốc gia trong vài năm tới mà còn đặt ra những câu hỏi căn bản về bản sắc và tương lai của chính nước Mỹ. Trong khi kết quả bầu cử sẽ quyết định nhiều vấn đề quan trọng, những xung đột sâu sắc về bản chất của nước Mỹ đã được phản ảnh rõ nét qua đường lối, chính sách nêu ra tại hai đại hội Đảng Cộng Hòa và Dân Chủ vừa qua.
Tôi đã xem qua cả trăm bài viết với với nội dung và ngôn từ (“đầu đường xó chợ”) tương tự nhưng chưa bao giờ bận tâm hay phiền hà gì sất. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, các bạn DLV đều không quen cầm bút nên viết lách hơi bị khó khăn, và vô cùng khó đọc. Họ hoàn toàn không có khái niệm chi về câu cú và văn phạm cả nên hành văn lủng củng, vụng về, dài dòng, lan man trích dẫn đủ thứ nghị quyết (vớ vẩn) để chứng minh là đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước luôn luôn đúng đắn. Họ cũng sẵn sàng thóa mạ bất cứ ai không “nhận thức được sự đúng đắn” này, chứ không thể lập luận hay phản bác bất cứ một cáo buộc nào ráo trọi.
Ngày 20/7/1969, hai phi hành gia Neil Armstrong và Edwin Aldrin đi vào lịch sử như là hai người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng thế nhưng sự kiện này bị một số nhà “lý thuyết âm mưu” lên tiếng phủ nhận. Căn cứ vào những điểm “khả nghi” trong tấm hình chụp Armstrong đứng cạnh lá cờ cắm trên Mặt Trăng, họ quả quyết rằng tất cả chỉ là chuyện dàn dựng và bức hình này chỉ được chụp tại một sa mạc ở Nevada. Nhưng bằng chứng của vụ đổ bộ ấy đâu chỉ duy nhất một tấm hình? Tàu Appollo 11 phóng từ mũi Kennedy trước con mắt hàng chục ngàn người và hàng trăm triệu người qua ống kính truyền hình. Hàng trăm ngàn thước phim quay được và chụp được khi tàu Appollo vờn trên quỹ đạo quanh mặt trăng, cảnh tàu con rời tàu mẹ để đổ bộ, cảnh các phi hành gia đi bộ và cả những túi đất đá mang về từ Mặt Trăng v.v. Chúng ta thấy gì ở đây? Những bằng chứng xác thực thì nặng như núi nhưng, khi đã cố tình không tin, đã cố vạch ra những âm mưu thì chỉ cần mấy điểm khả nghi nhẹ tựa lông hồng.
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.