Hôm nay,  

Fidel Castro và “kẻ thù phương Bắc”

03/12/201615:42:00(Xem: 5936)
Fidel Castro và “kẻ thù phương Bắc”
  
Bùi Văn Phú

  

Cựu Chủ tịch Fidel Castro của Cuba vừa qua đời, hưởng thọ 90 tuổi. Lãnh đạo lâu năm của đảo quốc sát cạnh Hoa Kỳ là người đã đối đầu với 11 tổng thống Mỹ từ hơn sáu thập niên qua.

 

Thập niên trước, vì sức khoẻ yếu nên Fidel đã trao quyền lại cho người em là Raul Castro.

 

Cuối năm 2014 Hoa Kỳ và Cuba tái lập quan hệ ngoại giao. Đại sứ quán của hai nưóc đã được mở ra tại Washington và Havana.

 

Đầu năm nay Tổng thống Barack Obama đã có chuyến viếng thăm chính thức Cuba, là tổng thống Mỹ đầu tiên công du đến đây trong gần một thế kỷ, kể từ khi Tổng thống Calvin Coolidge thăm nước này vào năm 1928.

 

Ngay sau chuyến viếng thăm của Tổng thống Obama, Fidel Castro đã viết trên báo Granma của Đảng Cộng sản Cuba rằng lãnh đạo Hoa Kỳ không đáng tin cậy và Cuba không cần sự giúp đỡ của Mỹ.

 

Tối 25/11 vừa qua, tin Fidel Castro từ trần được nhanh chóng truyền đi ở Little Havana và hàng nghìn người Mỹ gốc Cuba đã xuống đường nhảy múa reo mừng.

 

Từ ngày Fidel lên nắm quyền năm 1959, cả triệu người Cuba đã bỏ nước ra đi, nhiều người vượt biển. Hiện có hai triệu người Cuba sinh sống tại Mỹ, hơn một nửa ở tiểu bang Florida, tập trung đông nhất ở Miami, cách Havana chưa đến 200 km.

 

Nhiều người Mỹ cũng như người Cuba chưa quên những tháng ngày căng thẳng vào đầu thập niên 1960 với sự kiện CIA Mỹ tài trợ vụ tấn công Vịnh Con Heo, nhưng thất bại trong việc lật đổ Fidel. Cũng như khi Fidel cho Liên Xô đem vũ khí nguyên tử vào đặt trên đất Cuba, nhắm vào Hoa Kỳ đã gây căng thẳng cao độ vì nguy cơ chiến tranh nguyên tử có thể xảy ra.

 

Hơn nửa thế kỷ qua, vì không được tự do du lịch đến một đảo quốc với dân số hiện nay là 11 triệu người, chỉ cách Hoa Kỳ một khoảng ngắn, nơi Fidel Castro lúc nào cũng sôi sục chống Mỹ, sợ Mỹ ám sát và xâm lăng, nên luôn có những huyền thoại về xứ sở của xì gà và rượu rum trong lòng nhiều người Mỹ.

 

Mấy năm trước tôi có dịp đến Cuba một tuần trong một chương trình giáo dục.

 

Khi ở đó đọc được trên báo và nghe nhắc đến nhóm chữ “kẻ thù phương Bắc” – theo lời người hướng dẫn dịch lại từ tiếng Tây Ban Nha ra tiếng Anh là “enemy from the North” – mà người dân Cuba nhìn đó là các lãnh đạo Mỹ.

 

Đi nhiều nơi, khi biết chúng tôi là người Mỹ, dân Cuba thường nói giữa nhân dân hai nước có quan hệ tốt đẹp, còn chuyện chính trị là việc của lãnh đạo.

 

Mỗi ngày đoàn chúng tôi được nghe các giới chức nói chuyện về một lĩnh vực trong đời sống dân Cuba, từ y tế, giáo dục đến văn hoá, xã hội. Các bài nói chuyện đều có dẫn chứng Hiến pháp bảo đảm quyền lợi căn bản cho dân, có ghi lại phát biểu của Fidel Castro về các chính sách.

 

Ngồi nghe tôi liên tưởng đến những phát biểu, những buổi nói chuyện của quan chức nhà nước cộng sản Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế hay trong các buổi họp. Na ná một kiểu là Hiến pháp ghi rõ điều này, điều kia hay Chủ tịch Hồ Chính Minh từng nói thế này thế nọ.

 

Như nhiều người Việt đã trải nghiệm, từ văn bản, dù là Hiến pháp hay văn bản pháp qui đến thực tế áp dụng là một bước rất xa, đôi khi còn trái ngược. Và đó là nghịch lý của những quốc gia cộng sản mà Việt Nam hay Cuba không là ngoại lệ.

 

Về quan hệ bang giao quốc tế, những đề tài nghiên cứu để đối chiếu quan hệ Hoa Kỳ với Việt Nam và quan hệ Hoa Kỳ với Cuba sẽ được nhiều học giả chú ý đến trong tương lai.

 

Việt Nam trong những năm cuối thập niên 1980, khi mới đổi mới và mở cửa đón du khách phương Tây, đặc biệt là du khách Mỹ thì người Việt trong nước gặp du khách Mỹ cũng đều nói nhân dân hai nước không có thù hận gì nhau, chỉ có giữa hai chính phủ.

 

Hoa Kỳ và Việt Nam ngày nay đã có quan hệ đối tác toàn diện. Đại đa số người dân Việt đang muốn có quan hệ thân thiết hơn với Hoa Kỳ, theo những thông tin từ Đại sứ quán Mỹ đưa ra. Nhưng Hà Nội dường như cũng không muốn mặn mà hơn với Washington.

 

Sau cái chết của Fidel, Cuba có cơ hội trở thành bạn của Hoa Kỳ hay không? Tôi không tin điều đó sẽ xảy ra nếu không có cải cách dân chủ ở Cuba. Vì như trường hợp Việt Nam, sau 20 năm bang giao mà đến nay đâu đã có thực sự là bạn của Hoa Kỳ.

 

Cũng giống như Việt Nam với Điều 4 Hiến pháp, khi Đảng Cộng sản Cuba còn độc quyền cai trị, như ghi trong Điều 5 của Hiến Pháp Cuba, thì chưa thể có dân chủ trên đảo quốc này.

 

Cuba cũng như Việt Nam hiện không có tự do báo chí, tự do phát biểu. Những người nêu quan điểm bất đồng với nhà nước thường bị giam tù.

 

Học sinh, sinh viên Cuba được đi học hoàn toàn miễn phí. Điều này khác với Việt Nam. Nhưng chưa hẳn đó là một chính sách giáo dục tốt. Lý do là bởi ở các nước cộng sản giáo trình học tập do nhà nước đưa xuống, học sinh, sinh viên không quen phản biện mà chỉ biết học tập kiểu thuộc lòng.

 

Người hướng dẫn cho đoàn chúng tôi là người đã lấy bằng cử nhân công nghệ thông tin. Anh ra làm hướng dẫn du lịch được nhiều tiền hơn là làm công chức nhà nước. Lương trung bình một năm của người Cuba chừng 300 đôla. Một tuần hướng dẫn chúng tôi, chỉ tiền boa thôi anh cũng được 700 đôla, người tài xế được 600 đôla.

 

Cuba đã có chính sách nới lỏng về tự do kinh doanh, như việc cho tư nhân mở nhà hàng. Những nơi tôi đến ăn, một bữa tối trung bình 20 đôla. Tôi tự hỏi những chủ nhân nhà hàng đó có phải là cán bộ hay con cháu của họ, vì người dân thường lấy vốn ở đâu để mở nhà hàng đắt tiền như thế.

 

Để đối trọng với Mỹ đang dần nâng cấp quan hệ với Cuba, các lãnh đạo cộng sản còn lại của Trung Quốc là Tập Cận Bình và của Việt Nam, từ Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, Trần Đại Quang cũng đã thăm viếng đảo quốc này.

 

Việt Nam thường viện trợ gạo cho Cuba, mà theo người hướng dẫn đoàn của tôi nói là gạo ngon nhất.

 

Trong hơn nửa thế kỷ qua, chính sách đối đầu với Mỹ của Fidel Castro được các nước cộng sản hoan nghênh, trong đó có Việt Nam là hết lòng hơn cả. Vì thế Hà Nội đã quyết định dành ngày 4/12 làm quốc tang cho Fidel.

 

Quan hệ giữa Việt Nam và Cuba là tình đồng chí từ những ngày cuộc chiến chống Mỹ ở Việt Nam được Hồ Chính Minh khởi xướng vào cuối thập niên 1950, cùng thời điểm chiến tranh cách mạng ở Cuba do Fidel lãnh đạo đạt thành công.

 

Mấy năm trước, Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết đến Havana và đã có lời phát biểu nhớ đời là Cuba và Việt Nam, một nước ở phía đông, một nước ở phía tây, khi Cuba thức thì Việt Nam ngủ và khi Cuba ngủ thì Việt Nam thức để thay nhau canh giữ hòa bình thế giới.

 

Từ thập niên 1980 tôi đã có dịp tham quan những nước có khuynh hướng chống Mỹ, trước khi Liên bang Nga và Đông Âu sụp đổ. Tôi đã đi Trung Quốc, Ghana, Benin, Nigeria, Hungary. Thời đó, phát triển nhất theo tôi là Hungary.

 

Gần ba mươi năm sau đến Cuba thì thấy đất nước này thua Hungary của năm 1985 rất xa. Thủ đô Havana nghèo nàn, nhà cửa xuống cấp. Nhiều nhà cao tầng đang xây mà bỏ dở dang. Ở đây thiếu phương tiện di chuyển công cộng.

 

Dọc theo Malecón, nhìn những căn nhà ngó ra biển đáng lý ra phải là những nơi nghỉ mát đắt tiền, nhưng trên thực tế lại là những căn nhà xuống cấp tồi tệ, mầu sơn úa bạc và mưa nắng, gió biển đã soi mòn những cột sắt, bờ tường.

 

Lãnh đạo Cuba đổ lỗi cho Hoa Kỳ cấm vận.

 

Hơn nửa thế kỷ kiên trì theo đuổi chủ nghĩa cộng sản, dưới chế độ của Fidel Castro, đất nước Cuba thật nghèo nàn. Cửa tiệm ít mặt hàng. Ít thấy chợ. Hai trạm y tế ở thủ đô và ở miền quê đều rất đơn sơ.

 

Tổng thống Barack Obama đã mở ra quan hệ với Cuba như ông đã hứa khi vận động tranh cử năm 2008.

 

Năm 2009 ông ký sắc lệnh cho người Mỹ gốc Cuba về thăm quê hương, được gửi tiền về giúp thân nhân.

 

Mỗi năm có khoảng 400 nghìn người Mỹ gốc Cuba về thăm nhà và gửi hàng tỉ đôla về cho thân nhân.

 

Sau một tuần thăm Cuba, ra phi trường Marti thì bị cúp điện vài lần và chuyến bay trễ nhiều giờ. Về lại Miami, qua kiểm soát nhập cảnh nhân viên di trú hỏi tôi qua Cuba làm gì. Tôi đưa giấy chứng nhận và nói qua đó theo một chương trình tìm hiểu về giáo dục và y tế. Nghe thế ông nói với tôi rằng: “In Cuba they don’t teach you anything, only about communism.” – Ở Cuba họ không dạy gì ngoài chủ nghĩa cộng sản.

 

Với rất đông người gốc Cuba sinh sống ở Miami, tôi tin ông có những hiểu biết về Cuba nhiều hơn tôi.

 

Điều ông nói cũng giải thích tại sao khi nghe tin Fidel Castro qua đời, người Cuba ở Little Havana đã ra đường nhảy múa vui mừng.

 

Như thế điều tôi nghe được ở Havana về “kẻ thù phương Bắc” có phải là khúc ruột trăm dặm ở Miami, là chính phủ Mỹ – hay là cả hai.

 

© 2016 Buivanphu

 blank

H01: Ảnh chụp Chủ tịch Fidel Castro, bên phải, và nhà văn Mỹ Ernest Hemingway treo trong quán ăn ở ngoại thành Havana, nơi Hemingway viết tác phẩm “Ngư ông và biển cả” (ảnh Bùi Văn Phú)

 blank

H02: Một lớp học cấp 2 (ảnh Bùi Văn Phú)

 blank

H03: Chứng tích vụ tấn công Vịnh Con Heo trong Bảo tàng Cách mạng (ảnh Bùi Văn Phú)

 blank

H04: Du khách thăm Phố Cổ Havana (ảnh Bùi Văn Phú)

 blank

H05: Hình ảnh chế nhạo các Tổng thống Mỹ Ronald Reagan, George H.W. Bush Cha và George W. Bush Con trong Bảo tàng Cách mạng (ảnh Bùi Văn Phú)

 blank

H06: Xe cổ bên bờ Malecón ở Havana (ảnh Bùi Văn Phú)

 



.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.