Hôm nay,  

Trận Đói Năm Ất Dậu

25/01/200500:00:00(Xem: 14493)
Cách đây 60 năm, một tai họa kinh hoàng đổ xuống các tỉnh Bắc phần và Bắc Trung phần của Việt Nam. Đó là trận đói năm Ất Dậu khiến hàng triệu người thiệt mạng. Chính phủ nào gây nạn đói này"
Diễn đàn Kinh tế của RFA sẽ mở lại hồ sơ thảm khốc này qua phần trao đổi sau đây cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa do Việt Long thực hiện.
Hỏi: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, trên diễn đàn này, ông hay đưa ra những dự đoán về kinh tế trong tương lai. Kỳ này, chúng tôi xin đề nghị ông trở về quá khứ để mở lại một hồ sơ u ám của 60 năm về trước là trận đói năm Ất Dậu tại miền Bắc Việt Nam.
-- Thưa vâng, một hồ sơ u ám mà dư luận thế giới ít biết và nhiều thế hệ người Việt có khi lại đã quên. Và nói về chuyện dự báo thì một trường hợp tương tự vẫn có thể xảy ra trong thế kỷ 21 này, nếu ta theo dõi những gì đang xảy ra tại Trung Quốc. Đó là chưa nói đến dịch cúm gia cầm nay đã tái phát ngay tại Việt Nam với tốc độ rất đáng e ngại.
Hỏi: Ta chỉ còn hai tuần nữa là sẽ ăn Tết Ất Dậu. Chúng tôi không muốn vào đầu năm lại nói về chuyện u buồn của quá khứ nên mới yêu cầu đề tài trên vào tuần này. Xin ông trước hết cho biết kích thước của thảm kịch, cụ thể là số tử vong của trận đói.
-- Chỉ một sự kiện này cũng đủ cho thấy kích thước của thảm kịch vì các chính quyền hay giới chức liên hệ đến tình hình Việt Nam vào thời ấy không thống nhất được số tử vong trực tiếp của trận đói, chưa nói đến hậu quả gián tiếp về nhân mạng, thí dụ như dịch bệnh. Mà lúc đó thì các chính quyền liên hệ thực ra lại có rất nhiều, chúng ta có người Pháp, người Nhật, và mấy chính quyền của người Việt. Nói vắn tắt thì trận đói xảy ra từ tháng 10 năm 1944 đến tháng Sáu năm 1945, nặng nhất là ở các tỉnh miền Bắc như Hải Dương, Kiến An, Nam Định, Ninh Bình và Thái Bình, và tại hai tỉnh miền Bắc Trung phần là Nghệ An và Hà Tĩnh. Duy nhất có một chính quyền có nỗ lực cứu đói là Chính phủ Trần Trọng Kim thì chính phủ này bị lật đổ bởi cuộc chính biến 19 tháng Tám năm 1945 và không kịp kiểm tra hay báo cáo tình hình tổn thất về nhân mạng.
Hỏi: Nghĩa là một trận đói lớn lao như vậy xảy ra mà mình không biết rõ về số tử vong"
-- Đấy là điều ai oán vì những kẻ có trách nhiệm sau đó bị quét sạch và những người còn lại thì lao vào một thảm kịch khác là chiến tranh. Về số tử vong thì tháng Năm, năm 1945, tức là bảy tháng sau khi trận đói bùng nổ tại miền Bắc, toà Khâm Sai tại Hà Nội ra lệnh các tỉnh miền Bắc phúc trình về tổn thất. Có 20 tỉnh báo cáo số người chết vì đói ngoài Bắc là hơn 380 ngàn, chết vì bệnh – mà không rõ bệnh gì – là hơn 20 ngàn, vị chi là 400 ngàn cho riêng miền Bắc. Qua tháng 10 năm đó, một giới chức quân sự Pháp tại Đông Dương là Tướng Mordant báo cáo là khoảng nửa triệu người chết. Toàn quyền Pháp Jean Decoux thì viết trong hồi ký của ông về thời cầm quyền tại Đông Dương – À la barre de l’Indochine – là có một triệu người miền Bắc chết đói. Phần mình, người Việt ước đoán là từ một đến hai triệu. Nhiều sử gia về sau nêu ra con số một triệu trong khi những người sinh sống tại miền Bắc khi đó thì thiên về con số hai triệu, là điều ông Hồ Chí Minh có nói đến trong bài tuyên ngôn Độc lập của Việt Minh ngày mùng hai tháng Chín năm 1945. Để thấy rõ tầm mức thiệt hại thì mình cần nhớ là khi đó dân số miền Bắc và miền Bắc Trung phần chỉ vỏn vẹn có 10 triệu người. Toàn quốc thì có thể là hơn 20 triệu. Một tai họa khiến cho từ 5 đến 10% dân số toàn quốc bị chết, mà lại chết vì đói, là điều đáng buồn.
Hỏi: Bây giờ, ta hãy nói về những nguyên nhân. Vì sao lại có một tai họa như vậy"
-- Trả lời câu hỏi này, có lẽ ta phải thận trọng gỡ cho ra một mớ bòng bong chằng chịt rất nhiều yếu tố. Nguyên nhân xa là sự tệ hại của chế độ thực dân Pháp tại Việt Nam, với những biện pháp cải cách kinh tế nhằm phục vụ chế độ và nhu cầu chiến tranh, vì Pháp khi đó đang lâm chiến và bị xâm chiếm. Nguyên nhân gần là các hậu quả về chiến tranh tại Đông Đương, vì hai rồi ba cường quốc liên hệ là Pháp, Nhật rồi cả Hoa Kỳ đã can thiệp vào Việt Nam và gây nhiều tai họa ảnh hưởng đến sinh hoạt kinh tế của người Việt. Đó là cái nhân, cái duyên là thiên tai gây mất mùa tại miền Bắc, là những biến động quân sự và chính trị dồn dập xảy ra khiến miền Bắc vốn dĩ đã thiếu gạo nên bị đói.
Hỏi: Ta hãy lần giở từng phần của mớ bòng bong ấy, xin ông nói về các nguyên nhân xa...
-- Sau vụ tổng khủng hoảng kinh tế năm 1930, Pháp lui về chính sách bảo hộ mậu dịch và muốn độc quyền khai thác Đông Dương theo đường lối rõ rệt là thực dân. Tức là toàn thể dân chúng Đông Dương cùng ra sức nâng cao giá trị kinh tế của khu vực, nhưng hưởng lợi thì chỉ có người Pháp, một thiểu số người Việt và người Hoa gần với Pháp hay một số dân chúng thành thị. Pháp nói đến công lao khai hoá và xây dựng hạ tầng, nhưng dân Việt ra sức tài trợ việc đó bằng sức lao động và sưu thuế, còn lợi lộc thì chỉ nước Pháp và một thiểu số bản xứ được hưởng. Hậu quả là trước Thế chiến II, Việt Nam vẫn là một xứ lạc hậu và nghèo đói so với nhiều xứ Á châu khác, kể cả các thuộc địa của Anh.
Hỏi: Và xứ sở nghèo đói ấy lại bị lôi cuốn vào chiến tranh phải không"

-- Vâng, khi Thế chiến II bùng nổ, Pháp bị yếu thế. Tại Đông Á, Nhật bắt đầu bành trướng và nhìn vào Đông Dương như đầu cầu tiến qua Nam Á và khống chế Trung Quốc. Giữa năm 1940, Pháp bị Đức chiếm và Nhật gây sức ép với Pháp rồi năm sau tiến vào Đông Dương. Tức là sau khi bị khai thác và vẫn còn nghèo túng, Việt Nam tuột dần vào nền kinh tế thời chiến, với việc Pháp và Nhật cố tranh giành quyền kiểm soát kinh tế. Người ta nói đến lý do là Nhật bắt dân ta trồng đay thay trồng gạo để phục vụ chiến tranh. Thực ra, Pháp tiến hành việc ấy từ trước, cụ thể là thu hẹp diện tích canh tác các hoa màu phụ như ngô, khoai, sắn, để trồng bông, đay gai hay cây kỹ nghệ. Khi thiếu gạo, dân ta còn ăn độn khoai sắn, loại lương thực hạng nhì đó cũng hết nên mới chết. Cụ thể là sản lượng gạo tại miền Bắc tăng không dịp với dân số vì diện tích canh tác bị thu hẹp. Và miền Bắc cần gạo trong Nam, sau khi gửi phân đạm vào Nam....
Hỏi: Và chiến tranh phá vỡ thế hỗ tương ấy, ta đang tiến đến các nguyên nhân gần...
-- Vâng, là những nguyên nhân khiến dân ta vốn dĩ đã nghèo nay lại thiếu ăn trầm trọng. Nói chung thì miền Bắc có thể tạm đủ lương thực để cầm hơi, nhưng vì Việt Nam bị Nhật chiếm đóng và Đồng minh - chủ yếu là Hoa Kỳ - thường xuyên oanh tạc đường vận tải để tấn công quân Nhật nên gạo Nam hết ra Bắc, và than hay phân bón từ miền Bắc hết vào Nam. Hậu quả là sản lượng gạo trong Nam có sụt nhưng vẫn thừa và thóc còn bị Nhật đốt thay than để chạy xe lửa như nhiều người đã kể lại. Thực ra, lý do chính yếu là cả Pháp và Nhật đều ra sức vét gạo với chế độ cưỡng bách thu mua cho nhu cầu chiến tranh của họ trong khi bộ máy chính quyền của Pháp đã tan rã nên không đảm bảo được việc tiếp vận và phân phối. Nạn thiếu ăn biến thành nạn đói, manh nha từ đầu năm 1944.
Hỏi: Đã vậy, ta còn gặp các yếu tố thời cơ ông gọi là cái duyên của cái nhân đã có sẵn"
-- Thưa đúng vậy. Vì chiến tranh và sự tê liệt của guồng máy nhà nước, ta đã có nạn vật giá leo thang, nhất là giá lương thực. Thế rồi, miền Bắc lại bị hạn hán và côn trùng phá hoại khiến vụ Đông Xuân năm 1944 bị sụt khoảng 20%. Kế tiếp là lũ lụt lại xảy ra vào vụ Chiêm nên khủng hoảng bắt đầu bùng nổ. Thế rồi trong khi cả Pháp và Nhật cùng vét gạo thì một lực lượng khác là Việt Minh cũng tung ra thủ đoạn ấy. Điều này thì các văn kiện đảng về lịch sử đảng Cộng sản tất nhiên không nói đến. Trong cảnh đói kém triền miên khiến cho các làng xã hết còn bảo bọc được nhau như truyền thống, lực lượng nào có gạo thì hy vọng có dân. Về đại thể, chính quyền Pháp thời đó còn có chút cố gắng giới hạn để lo tiếp tế chứ khi Nhật đảo chính Pháp xong, vào tháng Ba năm 1945, họ không có biện pháp cấp cứu gì. Nỗ lực cứu đói của Chính phủ Trần Trọng Kim và cứu tế của một số người như bác sĩ Phan Quang Đán cùng các phong trào thanh niên thời ấy mới là điều đáng ghi nhớ.
Hỏi: Nếu tổng kết lại, ông cho rằng trận đói năm Ất Dậu bùng nổ vì là hậu quả của nhiều yếu tố trùng hợp, xảy ra một cách bất hạnh cho người Việt thời ấy"
-- Quả như thế. Thiên tai như hạn hán, lũ lụt hay côn trùng phá hoại mùa màng lẫn cả nạn giặc giã thì lịch sử Việt Nam thấy đã nhiều, nhưng chưa bao giờ khiến cả vạn hay cả triệu người chết đói. Nguyên do sâu xa là chế độ thực dân làm một xứ nông nghiệp lại thiếu lương thực. Tai họa chiến tranh trong một lãnh thổ mà chính quyền bị tê liệt là nguyên nhân gần. Kế tiếp mới là những tính toán chính trị bất nhân của các phe tham chiến. Ngần ấy yếu tố mới dẫn tới thảm kịch mà ngày nay có hỏi thế giới thì hầu hết đều không biết.
Hỏi: Và hậu quả sau đó ra sao, ông có thể rút kết luận gì"
-- Hậu quả gần là sự cáo chung của chế độ thực dân tại Việt Nam và cơ hội cho cuộc chính biến của Việt Minh ngày 19 tháng Tám năm 1945. Lúc đó, Nhật bại trận phải đầu hàng và rút quân, để lại một khoảng trống chính trị cho những hỗn loạn kế tiếp khi Thế chiến II kết thúc lại mở màn cho Chiến tranh lạnh, rồi Việt Nam lại bị lôi vào một cuộc chiến khác. Hậu quả xa là vì lương thực và nông nghiệp là chuyện sinh tử, người cộng sản mới đi tới giải pháp tai hại là cải cách ruộng đất khiến cả vạn người lại bị mất mạng nữa, rồi còn chủ trương hợp tác hoá nông nghiệp khiến cả triệu người bị đói... Mãi đến gần đây - từ 10 năm trở lại - dân ta mới hết bị cái đói ám ảnh...
Hỏi: Câu hỏi cuối, vào đầu chương trình ông có nói là một biến cố tương tự vẫn có thể xảy ra tại Hoa Lục. Vì sao lại như vậy"
-- Trung Quốc có một tỷ ba trăm triệu dân, trong số này, gần 900 triệu là nông dân nghèo và bất mãn. Một vụ khủng hoảng kinh tế vẫn có thể xảy ra và vì hệ thống chính trị lạc hậu với ách độc tài, khủng hoảng bùng nổ tất nhiên sẽ lan qua chính trị và đánh xập bộ máy nhà nước. Trong trường hợp ấy, nhiều người có thể chết đói mà thế giới vẫn không biết để can thiệp hay cấp cứu. Ngay tại Bắc Kinh, tháng Sáu năm 1989, quân đội đã tàn sát cả ngàn người tại quảng trường Thiên an môn mà thế giới chưa biết đích xác số nạn nhân. Vì vậy, nhiều tỉnh, huyện hay xã ấp sẽ có người chết đói mà mình không biết. Cũng như đã không biết là khoảng 65 triệu cho một dân số gần 500 triệu đã chết vì cuộc cách mạng của Mao Trạch Đông.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Kể từ khi tổ chức khủng bố Hamas tấn công vào Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023, các vụ xung đột đẫm máu xảy tại Dải Gaza cho đến nay vẫn chưa kết thúc. Nhưng gần đây, cộng đồng quốc tế còn tỏ ra lo ngại nhiều hơn khi giao tranh giữa Israel và lực lượng dân quân Hezbollah ở Lebanon đang gia tăng. Bằng chứng là sau cái chết của thủ lĩnh Hamas Ismail Haniya và thủ lĩnh Hezbollah Hassan Nasrallah, tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Trong vài tháng qua, người dân Mỹ, dù muốn hay không muốn, cũng đã có nhiều cơ hội để nhìn về một bức tranh mà trong đó có quá nhiều sự tương phản. Những mảnh ghép từ hai tầm nhìn, hai chiến lược, hai mục đích hoàn toàn khác biệt đã dần dần rơi xuống, để lộ ra hai con đường hoàn toàn khác biệt cho người Mỹ lựa chọn. Dù có một bức màn đã rơi xuống (như nữ hoàng Oprah Winfrey đã ví von) cho một thuyền trưởng bước ra, trao lại cho người dân sự hy vọng, lòng tin, trách nhiệm, thì sâu thẳm bên trong chúng ta vẫn muốn biết, những giá trị thực của một triều đại đã mang lại. Từ đó, niềm tin sẽ được củng cố.
Bi hài kịch “ngoại giao cây tre”, với hoạt cảnh mới nhất là “cưỡng bức đặc xá”, đã giúp chúng ta nhận ra rằng, dẫu khác nhau nước lửa, “phóng sinh” và “hiến tế” vẫn có thể hội tụ ở ý nghĩa “triều cống” khi phải chiều lòng hai cường quốc ở hai đầu mút của hai hệ tư tưởng trái ngược nhau. Để đẹp lòng bên này thì phải nhẫn tâm “hiến tế”, mà để làm hài lòng bên kia thì phải diễn tuồng “phóng sinh” để có một dáng dấp khai phóng, cởi mở. “Chiến lược ngoại giao” này, phải chăng, là một trò chơi “ăn bù thua” mà, diễn đạt bằng ngôn ngữ toán học của Game Theory, là có tổng bằng không?
Trận Điện Biên Phủ kết thúc vào hôm 7 tháng 5 năm 1954. Bẩy mươi năm đã qua nhưng dư âm chiến thắng, nghe chừng, vẫn còn âm vang khắp chốn. Tại một góc phố, ở Hà Nội, có bảng tên đường Điện Biên Phủ – cùng với đôi dòng chú thích đính kèm – ghi rõ nét tự hào và hãnh diện: “Tên địa danh thuộc tỉnh Lai Châu, nơi diễn ra trận đánh quyết liệt của quân và dân ta tiêu diệt tập đoàn cứ điểm thực dân Pháp kéo dài 55 ngày đêm”.
JD Vance đã chứng tỏ một “đẳng cấp” khác, rất “Yale Law School” so với thương gia bán kinh thánh, giày vàng, đồng hồ vàng, Donald Trump. Rõ ràng, về phong cách, JD Vance đã tỏ ra lịch sự, tự tin – điều mà khi khởi đầu, Thống đốc Walz chưa làm được. Vance đã đạt đến “đỉnh” của mục tiêu ông ta muốn: lý trí, ôn hoà, tỉnh táo hơn Donald Trump. “Đẳng cấp” này đã làm cho Thống Đốc Tim Walz, người từng thẳng thắn tự nhận “không giỏi tranh luận” phải vài lần phải trợn mắt, bối rối trong 90 phút. Cho dù hầu như trong tất cả câu hỏi, ông đã làm rất tốt trong việc phản biện lại những lời nói dối của JD Vance, đặc biệt là câu chất vất hạ gục đối thủ ở phút cuối: “Trump đã thua trong cuộc bầu cử 2020 đúng không?” JD Vance đáp lại câu hỏi này của Tim Walz bằng hàng loạt câu trả lời né tránh và phủ nhận sự thật. Và dĩ nhiên, rất “slick.” “Trump đã chuyển giao quyền lực rất ôn hoà.” Cả thế giới có thể luận bàn về sự thật trong câu trả lời này.
Phải nhìn nhận rằng chuyến đi đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đến Mỹ đã được giới chức ngoại giao Việt Nam thu xếp để ông gặp được nhiều lãnh đạo, xem như xã giao ra mắt để hợp tác, hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lãnh vực trong tương lai. Bài diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc chỉ lặp lại các chính sách đối ngoại của Hà Nội, nên không được truyền thông quốc tế chú ý nhiều như các diễn văn của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky và Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu, là đại diện cho những quốc gia trực tiếp liên can đến các xung đột ở Trung Đông, ở Ukraine mà có nguy cơ lan rộng ra thế giới. Ông Lâm mới lên làm chủ tịch nước kiêm tổng bí thư Đảng Cộng sản được vài tháng, sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời, nên ông muốn dịp đến Liên Hiệp Quốc là dịp để thể hiện vai trò lãnh đạo của mình và nhấn mạnh đến chính sách ngoại giao du dây của Hà Nội.
Sự bất mãn lan rộng với các hệ thống thuộc chủ nghĩa tư bản hiện tại đã khiến nhiều quốc gia, giàu và nghèo, tìm kiếm các mô hình kinh tế mới. Những người bảo vệ nguyên trạng tiếp tục coi Hoa Kỳ là một ngôi sao sáng, nền kinh tế của nước này vượt xa châu Âu và Nhật Bản, các thị trường tài chính của nước này vẫn chiếm ưu thế hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, công dân của nước này cũng bi quan như bất kỳ công dân nào ở phương Tây.
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.