Hôm nay,  

Tinh Thần Trần Nhân Tông

26/09/201700:00:00(Xem: 7577)

Tinh Thần Trần Nhân Tông
Câu Lạc Bộ Trần Nhân Tông
 

Vua Trần Nhân Tông là vị vua thứ 3 của triều đại Nhà Trần (1225-1400), một trong những triều đại thịnh trị nhất trong lịch sử Việt Nam.

Vua Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm, sinh ngày 7 tháng 12 năm 1258. Ông là con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm Trần Thị Thiều. Trần Nhân Tông được vua cha truyền ngôi làm vua vào tháng 11 năm 1278, lúc ông 20 tuổi.

Ngày 16 tháng 4 năm 1293 Vua Trần Nhân Tông truyền ngôi cho con là Thái Tử Trần Thuyên, tức Vua Trần Anh Tông, rồi lên làm Thái Thượng Hoàng. Vua Trần Nhân Tông trị vì Nước Đại Việt 15 năm, từ 1278 tới 1293.

Tháng 10 âm lịch năm 1299, Vua Trần Nhân Tông lên núi Yên Tử, nay thuộc Tỉnh Quảng Ninh, Miền Bắc Việt Nam, xuất gia làm tu sĩ Phật Giáo và thực hành khổ hạnh đầu đà, lấy Pháp Danh là Hương Vân Đại Đầu Đà. Ngài còn có Đạo Hiệu là Trúc Lâm Đại Đầu Đà, Trúc Lâm Đại Sĩ, và Giác Hoàng Điều Ngự. Ngài đã thành lập Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử, là dòng Thiền mang bản sắc đặc thù của Phật Giáo Việt Nam, còn truyền mãi đến ngày nay.

Tổ Sư Trần Nhân Tông đã viên tịch vào ngày 16 tháng 12 năm 1308 tại Ngọa Vân Am trên Núi Yên Tử.

Vua Trần Nhân Tông có hai sự nghiệp chói sáng muôn đời trong lịch sử Việt Nam. Thứ nhất là sự nghiệp giữ nước và phát triển đất nước trong vai trò của vị minh quân Trần Nhân Tông. Thứ hai là sự nghiệp truyền bá Phật Pháp, mà nổi bật nhất là sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, của Tổ Sư Trần Nhân Tông.

Trong sự nghiệp giữ nước và phát triển đất nước, Vua Trần Nhân Tông đã hai lần đánh bại quân Nguyên của Đại Đế Hốt Tất Liệt vào năm 1285, với đội quân xâm lược 50 vạn tức nửa triệu lính, và từ năm 1287 đến năm 1288, với 30 vạn quân, tức 300,000 lính.

Trong hai cuộc chiến chống quân Nguyên bảo vệ sơn hà xã tắc của Đại Việt, Vua Trần Nhân Tông đã cùng với Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông mở hai cuộc hội nghị lịch sử, đó là Hội Nghị Bình Than năm 1282 để bàn kế sách quân sự đánh quân Nguyên và Hội Nghị Diên Hồng tháng 10 âm lịch năm 1284 để thống nhất ý chí toàn dân trong công cuộc chống lại cuộc xâm lăng của quân Nguyên.

Hội Nghị Diên Hồng là sự kiện đặc thù có một không hai trong lịch sử của dân tộc Việt Nam. Đây là lần đầu tiên một chế độ phong kiến ở Việt Nam thực hiện cuộc trưng cầu dân ý mà thực chất từ nội dung đến hình thức không khác thể chế dân chủ trong thời đại văn minh tiến bộ ngày nay. Nhờ thực thi chính sách dân chủ đó mà Vua Trần Nhân Tông đã có thể thống nhất được lòng dân và xây dựng được nội lực đoàn kết của dân tộc để cùng nhau quyết tâm chiến đấu đánh bại cuộc xâm lăng hung tàn của giặc Nguyên, một đội quân đã dày xéo vó ngựa xâm lược từ Mông Cổ, Trung Hoa đến tận các nước Đông  Âu, Trung Đông và lục địa Châu Á. Do vậy, Hội Nghị Diên Hồng còn là biểu tượng sáng ngời cho thấy sức mạnh dân chủ trong công cuộc bảo vệ và phát triển đất nước.


Trong sự nghiệp truyền bá Phật Pháp, Tổ Sư Trần Nhân Tông là người khai sáng dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử mang bản sắc đặc thù của Phật Giáo Việt Nam lấy trí tuệ giác ngộ và giải thoát ngay trong đời này làm mục đích thành tựu và lấy đại nguyện từ bi cứu khổ muôn dân làm chỉ nam cho mọi hành hoạt truyền bá Chánh Pháp. Tinh túy của Thiền Phái Trúc Lâm nằm ở cốt tủy “Cư trần lạc đạo.” Thành tựu đạo quả giác ngộ và giải thoát để sống an lạc ngay giữa cuộc đời này, mà không cần phải đi tìm đâu xa. Đó là triết lý hành đạo xuất thế ngay trong nhập thế.

Tổ sư Trần Nhân Tông đã nhìn thấy được công năng ưu việt của Phật Pháp không những cho sự nghiệp giải thoát khổ đau đối với từng cá nhân con người, mà còn cho sự nghiệp xây dựng và phát triển xã hội và đất nước. Tổ Sư Trần Nhân Tông là đệ tử của Thiền Sư Tuệ Trung Thượng Sĩ và được ân sư giáo dưỡng tận tình. Cho nên, ngay từ lúc còn ở ngôi vị quân vương ngài đã đem tinh thần Phật Giáo để tế thế an bang, và ngài đã làm được điều đó một cách viên mãn. Đến khi xuất gia làm Tăng Sĩ, Tổ Sư Trần Nhân Tông đã không ngừng du hóa khắp bốn phương trong dân gian để đem Phật Pháp và đạo Thiền truyền bá cho mọi người cùng thực hành. Tổ Sư Trần Nhân Tông đặc biệt chú trọng đến việc quảng bá Mười Điều Thiện hay còn gọi là Thập Thiện Nghiệp Đạo, để chỉ dạy cho bá tánh tu tập theo mười điều thiện và xả bỏ mười điều ác. Đối với Tổ Sư Trần Nhân Tông, khi thần dân trong Đại Việt có thể thực hành được mười điều thiện thì quốc gia không cần luật lệ nghiêm khắc mà xã tắc và thiên hạ sẽ được thái bình thịnh trị.

Tổ Sư Trần Nhân Tông còn nhận thấy nơi Đạo Phật sức mạnh phi thường trong việc xây dựng nội lực đạo đức, văn hóa và tâm linh cho dân tộc để làm chất liệu keo sơn bền vững trong việc đối kháng lại các thế lực xăm lăng của ngoại bang và giữ vững nền độc lập tự chủ của dân tộc. Lịch sử của các triều đại về sau đã cho thấy điều đó. Khi nào đất nước thịnh trị cũng chính là lúc Đạo Phật Việt Nam hung thịnh. Ngược lại, những lúc Đạo Phật suy vi nhân tâm ly tán chính là lúc đất nước suy vong, dân tộc lầm than điêu đứng.

Không một nhà lãnh đạo Việt Nam nào từ trước tới nay nhìn thấu suốt được vấn đề đó cho bằng Vua Trần Nhân Tông. Chính vì vậy, cả đời ngài, lúc làm Vua cũng như lúc làm Tăng Sĩ Phật Giáo, đều tận lực đem Chánh Pháp ra để thực hành và truyền bá. Có lẽ, đối với Vua Trần Nhân Tông, Phật Pháp là chiếc chìa khóa không những để mở tung tâm thức giác ngộ và giải thoát khổ đau, mà còn để mở ra cánh cửa thái bình thịnh trị và độc lập tự chủ cho cả dân tộc.
Câu Lạc Bộ Trần Nhân Tông

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
Gần đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố áp dụng chính sách áp thuế 25% đối với ô tô nhập khẩu vào Mỹ, trước đó Trump cũng đã áp đặt biện pháp trừng phạt chung đối với Liên Âu, Canada, Mexico và Trung Quốc, nhưng lại tạm hoãn trong 30 ngày để cho Canada và Mexico thương thuyết. Các biện pháp bất nhất này gây nhiều hoang mang cho chính giới và doanh nghiệp các nước đối tác.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.