Hôm nay,  

Chất đất hiếm: R.E.E.

10/10/201700:00:00(Xem: 8536)
Chất đất hiếm - REE
Thanh Trương Lacey

 
Trong tương lai, quốc gia nào làm chủ nguồn đất hiếm sẽ làm bá chủ về mặt công nghiệp kỹ thuật cao cấp trong nhiều lãnh vực.

*

Đất hiếm đang được dùng trong công nghệ có mức đòí hỏi kỹ thuật cao như pin điện cho xe hơi, các cơ phận điện tử quốc phòng và trong nhiều lảnh vực khác.    Đất hiếm được xem là “quý hơn vàng” vì có nó mới có thể chế tạo đươc những sản phẩn công nghệ cao.  Hiện nay Trung quốc có rất nhiều mỏ về đất hiếm và coi như đang ở vị thế “bá chủ hoàn cầu” về khoáng chất quý này và đang cố tình giảm lại mức xuất cảng làm ảnh hưởng rất nặng nề đế công nghệ kỷ thuật của Nhật và nhiều quốc gia tiên tiến khác.  Chúng ta thử tìm hiểu thêm về chất đất hiếm  hay R.E.E. này.                   

Chất đất hiếm, hay rare earth element, viết tắc là R.E.E., được định nghĩa là một kết hợp của 17 hoá chất , trong đó có hai chất có tên là Scandium, Yttrium và 15 chất Lanthanides.  Scandium và yttrium được xem là đất hiếm vì có nằm chung quặng mỏ với chất lanthanides và có cùng giá trị hoá học.

Dù có tên khác nhau nhưng các chất đất hiếm ( trừ chất có tính bất định cao là promethium ) thì các chất khác tương đối có nhiều trong vỏ trái đất.  Tuy nhiên vì do tính sở -hữu- điạ- chất, chúng không thể được tìm ở hình thức cô đọng và ít tốn kém.  Chính vì sự hiếm hoi của những khoáng chất này  nên chúng được gọi là “đất hiếm”.  Chất đầu tiên là gadoline được lấy ra từ một mỏ ở làng Ytterby, Thụy điển; nhiều chất khác được đặt tên lấy từ địa danh này, một số khác được lấy tên các khoa học gia đã tìm ra chúng.  Chúng được phân loại ra:

- Đất hiếm

- Kim loại đất hiếm

- Phần tử đất hiếm

- Ốc-xit đất hiếm

- Phần tử đất hiếm nhẹ

- Phần tử đất hiếm nặng.

Chất đất hiếm được thế giới biết đến từ khám phá “khoáng chất đen” tên ytterbite (được đổi thành tên là “gadolinite” năm 1800) do một sĩ quan tên Carl Axel Arrhenius vào năm 1787 tại một hầm mỏ đá ở làng Ytterby, Thụy điển.

Cho đến năm 1802, có hai chất đất hiếm nữa được tìm ra là yttrium và cerium và cả 30 năm nữa mơí tìm ra được những chất khác như ceria và ochroia.

Năm 1839, một nhà hóa học dùng nhiệt tách chất ceria và cho hoà tan vào acid nitric và gọi tên nó là dung dịch muối lanthana và ông phải mất 3 năm nữa để tách lanthana thành chất didymia và lanthana ròng.

Đến năm 1842 thì số chất đất hiếm được tìm ra là 6 chất.  Các chất đất hiếm thường được tìm ra chung với nhau.  Chúng khó tách rời ra khỏi nhau.  Hai chất tách ra được đầu tiên tìm ra ở thể tách rời là yttria ( năm 1794) và ceria (1802).  Quặng có chất cerium có ở nhiều nơi trên thế giới và hiện đang được đào xới.  Còn quạng có chất yttrium thì nhỏ và hiếm lại ít tập trung một chỗ.  Phần lớn quặng yttrium có ở miền Nam Trung quốc.  Có nơi có độ tập trung đến 65% chất yttrium oxide.  Khoáng chất eudialyte được tìm ra ở miền nam của Greenland có số lượng nhỏ nhưng có trử lượng rất cao chất yttrium.  Trong nhiều năm qua, nhiều quặng có các chất đất hiếm được tìm ra ở Brazil, Ấn độ, Úc và Nam Phi, ở Nga, California và China.


Trong những năm vừa qua, chất đất hiếm được dùng trong kỹ thuật hiện đại ngày càng gia tăng đáng kể như trong các dụng cụ kỷ thuật, kể cả dụng cụ có tính siêu-dẩn, hợp kim, máy đánh bóng điện tử, các tác nhân tinh tế và các bộ phận trong xe hơi điện (phần chính yếu là cho pin và nam châm).   Ions của đất hiếm được trong ngành nhản khoa điện tử có tên là Nd:YAG laser.  Chất Erbrium được dùng trong quang sợi trong hệ thống truyền thông.  Chất đất hiếm cũng được dùng trong bóng điện cathode cho máy tv.  Chất euphorium làm cho màu của truyền hình CRT đẹp hơn.  Yttrium được dùng trong loại microwave có dĩa quay đựng thức ăn.  Chấtđất hiếm oxides được thay thế trong việc hàn vì ít tiết ra chất độc.  Nhiều sản phẩm quôc phòng dùng các chất đất hiếm như: kính quan sát ban đêm, máy đo tầm xa, radar SPY-1 trang bị cho tàu chiến và cho hệ thống phóng ngư lôi của ngư lôi đỉnh Arleigh Burke.

Từ năm 1948, phần lớn đất hiếm trên thế giới được lấy từ Ấn và Brazil.  Trong những năm của 1950, Nam Phi chiếm điạ vị độc tôn.  Trong những năm của 1960 cho đến những năm của 1980, rặng nứi Mountain Pass ở California dẫn đầu sản xuất.  Ngày nay, Ấn và Nam Phi vẫn còn sản xuất nhưng không theo kịp China.  Hiện nay China sản xuất 97% lượng đất hiếm trên thế giới, phần lớn là ở Nội Mông cổ. Tất cả đầt hiếm nặng trên thế giới như chất dysprosium đều nằm ở China.  Năm 2011, Hội Đia chất Mỹ cho ra một tài liệu nghiên cứu là Hoa kỳ có 13 triệu thước khối  các chất đất hiếm.  Nhu cầu  mới hiện nay vượt quá mức cung, người ta e rằng thế giới sẽ sớm bị thiếu chất đất hiếm.

Vì China hạn chế xuất cảng đất hiếm nên ngươì ta đi tìm những nguồn quặng  ở Úc, Brazil, Canada, Nam Phi và tại Mỹ.  Năm 2010 Việt Nam ký hợp đồng với Nhật để cung cấp đất hiếm ở phiá tây bắc tỉnh Lai Châu.   Một phương cách để lấy được đất hiếm là từ phế chất điện tử và từ các chất phế thải có chứa chất đất hiếm.

Việc khai mỏ, lọc và tái phục hoàn chất đất hiếm nếu không được quản trị đúng cách sẽ đem lại hậu quả nghiêm trọng cho môi trường.  Các chất như thorium và uranium, cũng như các chất acids độc đều tạo ra phóng xạ.  Tuy China đã đưa ra những biện pháp đối phó nhưng những nơi khai thác lớn như ở Baotu, thuộc Nội Mông Cổ, nơị tinh luyện hầu hết chất đất hiếm cho thế giới đang bị hũy hoại trầm trọng về môi trường.

Viện dẫn  cớ này, China tuyên bố giảm đi mức sản xuất đất hiếm để tạo thành phẩm với chất  đất hiếm rồi bán ra với giá cao  thay vì bán ra nguyên liệu với giá rẽ cho các quốc gia khác.  Trong biến cố một tàu của Trung cộng bị Nhật bắt giữ hồi tháng Chín năm 2010, TC đã cấm xuất cảng chất oxides đất hiếm sang Nhật [nhưng lại không cấm xuất cảng thành phẩm tạo từ chất đất hiếm của mình!].  TC cũng đã giãm mức xuất cảng chất R.E.E. mỗi năm ở mức 40%, tương đương với 30.258 tấn./.

 
 - Thành phố cuả Bình Yên - Trung tuần tháng Hai, 2011

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
Việt Nam và Trung Quốc đã ký 14 Văn kiện hợp tác an ninh Chính trị, Kinh tế-Thương mại và Văn hóa-Báo chí trong chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Tổng Bí thư Tô Lâm từ ngày 18 đến 20/08/2024. Trong số này, Văn kiện kết nối và thiết lập 3 Tuyến đường sắt giữa hai nước được gọi là “anh em” đã giúp Trung Quốc liên thông ra Biển Đông và bành trướng thế lực kinh tế...
Tại Campuchia, kênh đào Phù Nam Techo, trị giá 1,7 tỷ USD sẽ kết nối Phnom Penh và Vịnh Thái Lan, tượng trưng cho niềm tự hào dân tộc, an ninh và kết nối thương mại quốc tế. Người ta có thể cảm thấy như thế qua lời tuyên bố của Thủ tướng Campuchia Hun Manet và của ông Hun Sen, trong cương vị cố vấn, người đã chuyển giao quyền lực từ cha sang con vào năm ngoái...
Danh từ được tác giả dùng trong bài này không phải là danh từ theo tự loại mà là một thuật ngữ của Việt Cộng. Thuật ngữ Việt Công hay là danh từ Việt Cộng là những thuật ngữ, những từ được dùng trong nước dưới chính quyền Cộng sản Việt Nam. Ở trong nước người ta không dùng từ “Việt Cộng” mặc dầu Việt Cộng chỉ có ý nghĩa là Cộng Sản Việt Nam chớ không có nghĩa gì khác. Phải nói rõ ràng và dài dòng như vậy để tránh hiểu lầm và hiểu sai. Những danh từ đề cập trong bài viết này đa số là những danh từ kinh tế, vì chủ đề của bài viết là kinh tế, phân tích những ván đề kinh tế, nhận định về kinh tế chớ không phải chính trị, mặc dầu kinh tế không thể tách rời khỏi chính trị, xuất phát từ chính trị và tác động trở lại đời sống của mỗi con người chúng ta.
“Tôi hơi chậm hiểu lại rất chóng quên nên dù đã lê lết qua hơi nhiều trường ốc (trong cũng như ngoài nước) nhưng trình độ học vấn và kiến thức cũng chả̉ tới đâu, vẫn chỉ ở mức làng nhàng. Nói tóm lại là thuộc loại “xoàng”! Ơ! “Xoàng” thì đã sao nhỉ? Cũng không đến nỗi trăng/sao gì đâu, nếu tôi biết điều (biết chuyện – biết thân – biết phận) hơn chút xíu. Khổ nỗi, tôi lại cứ tưởng là mình cũng thuộc loại đầu óc trung bình (hoặc chỉ dưới mức đó không xa lắm) nên ghi danh học – tùm lum/tùm la – đủ thứ phân khoa: Triết Lý, Tâm Lý, Xã Hội, Nhân Chủng …
Một bài viết ngay sau khi được bầu vào chức Tổng Bí thư đảng CSVN cho thấy ông Tô Lâm đã hiện nguyên hình một người giáo điều, bảo thủ và hoài nghi trong “hợp tác quốc tế” với các nước. Trước hết ông cáo giác: “Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.” Lời tố cáo này không mới vì chỉ “nói cho có” và “không trưng ra được bằng chứng cụ thể nào”, giống hệt như những người tiền nhiệm...
- Mình lúc này không muốn theo dõi tin tức nữa. Mệt lắm. - Mình cũng vậy, không đọc báo, chỉ xem phim hoặc nghe thuyết pháp, tránh nhức đầu. - Đời người ngắn ngủi, sao phải tốn thì giờ… - Ở tuổi này, chuyện gì không vui xin miễn, tội gì phải đọc tin tức rồi tự mình làm khổ mình. Trong những năm gần đây, những phát biểu đại loại như trên từ bạn bè khiến những người trong ngành chúng tôi đôi lúc không khỏi ngán ngẫm về công việc báo chí của mình, một việc làm nếu đã không được tưởng thưởng tài chánh tương xứng, thì phần thưởng tinh thần từ ý nghĩa tự nó cũng không đủ bù đắp. Đọc báo hay không đọc báo?
Hồi đầu thế kỷ, có bữa, tôi nhận được thư của Vũ Thư Hiên. Ông hớn hở cho hay “Anh Tấn sắp sang Pháp chơi với anh vài tuần”. Thuở ấy, hai ông còn khá trẻ trung (và còn sung lắm) nên chắc chắn là đôi bạn già sẽ đi lung tung khắp Âu Châu, chứ dễ gì mà chịu quanh quẩn ở Paris. Mãi cả chục năm sau, sau khi nhà văn Bùi Ngọc Tấn lâm trọng bệnh, tôi mới nghe ông nhắc đến chuyến du hành thú vị này (với ít nhiều tiếc nuối) trong một cuộc phỏng vấn dành cho BBC – vào hôm 14 tháng 11 năm 2014: “Sang châu Âu, tôi quan sát dáng người đi, nét mặt của họ khác dân mình lắm… Đi thì mới biết mình bị mất những gì.”


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.