Hôm nay,  

Chết Cha Rồi!

23/06/201800:00:00(Xem: 4873)
Nguyễn Thị Cỏ May

 
Ở Pháp và nhiều nước, lễ Cha được cử hành hôm Chủ Nhựt 17 vừa qua (17/6 năm  2018) nhưng còn nhiều nước Âu châu như Thụy điển, lễ Cha vào tháng 11, Luxembourg, sát biên giới Pháp, vào tháng 10. Cũng giống như lễ Mẹ, lễ Cha không tổ chức thống nhứt cùng một ngày. Nhưng khác hẳn với lễ Mẹ, lễ Cha cho tới nay, vẫn chưa được chánh thức và lịch sử ngày lễ Cha thật đáng buồn. Như thân phận làm Cha! Hay thân phận đàn ông ngày nay. Tuy người Cha tối cao của chúng ta là Thiên Chúa trên Trời. Và Đại diện Cha trên Trời ở Vatican vẫn là Đức Thánh Cha!

Ngày của Cha

Mỗi năm, con cái mừng lễ Cha. Chúng ta cảm ơn sự bảo bọc của Cha, thời gian sống với ông và hơn hết là tình thương ông dành cho chúng ta. Có thể ông là người cha thay mẹ chăm sóc chúng ta, người thường cho chúng ta bánh kẹo, hoặc người Cha độc đoán, khó tánh, nhưng hằng năm, chúng ta đều có dịp đừng quên  nói "Chúng con thương Cha" khi tháng sáu về.

Thế mà ở Pháp, ngày lễ Cha không hề được một văn kiện, một mảnh giấy, chánh thức thừa nhận. Vậy khi chúng ta tổ chức lễ chúc mừng Cha, nếu phải cảm ơn thì chúng ta sẽ cảm ơn ai đây?

Người ta chỉ nhớ lễ Cha lần đầu tiên được đưa ra năm 1952, hai năm sau ngày lễ Mẹ được chánh phủ ban hành chánh thức. Đó là ngày lễ thuần túy thương mại, như ngày Bà Nội (Bà Ngoại) hay Ông Nội (Ông Ngoại) vào tháng 10 hằng năm. Thật vậy, cái ngày mà ngày nay gọi là lễ Cha chỉ là ngày mà nhà sản xuất ống quẹt máy ở vùng Bretagne (miền cực Tây-Bắc của Pháp) đưa ra chiến dịch khuyến mãi sản phẩm của mình.

Giữa thế kỷ XX, thuốc điếu rất thơm, không đầu lọc. Ba số 5 (555), ngoài bao 20 điếu, còn thứ đựng trong hộp thiết tròn 50 điếu. Con Mèo (Craven A) đựng trong hộp thiết dẹp, màu đỏ tuyệt đẹp. Đó là thời đàn ông nhiều người hút thuốc. Không ít người chụp hình, tay kẹp điếu thuốc hoặc miệng đang phì phà điếu thuốc. Nhà làm quẹt máy Flaminaire (flamme là ngọn lửa) có ý kiến đề nghị chọn một ngày để biếu các ông hút thuốc một chiếc quẹt máy. Thế là họ chọn ngày Chủ Nhựt thứ ba của tháng 6 để biếu một quẹt máy Flaminaire cho một người đàn ông có con, tức người cha. Thế là từ đó, Chủ Nhựt thứ ba của tháng 6 trở thành ngày lễ Cha cho tới ngày nay!

Còn quà biếu cha? Không tươm tất như đối với mẹ. Một bông hồng đỏ, tượng trưng ngày mừng Cha hoa nở đẹp. Hoặc một bông hồng trắng đem ra mộ Cha!

Ngày nay, người con trai nào thường "chén cha, chén chú" với Cha thì mang lại biếu cha chai ruọu ngon hoặc một thùng la-de 24 chai, mừng lễ Cha. Theo kết quả điều tra thì trung bình món quà cho Cha năm nay không quá 40 €. Rất ít trường hợp con cái mời cha đi ăn ở nhà hàng. Nhiều nhứt là con cái điện thoại hay e-mail chúc mừng cha.

Thật ra, ngày lễ Cha, theo lịch sử văn minh Tây phương, đã có từ rất xa xưa, thời Trung cổ và vào ngày 19 tháng ba vì lễ Cha được kết hợp với Thánh Josephe, Cha của Đức Jésus - Christ. Nhưng mãi tới đầu thế kỷ XX ngày lễ ấy mới được thế tục hóa nhờ một phụ nữ trẻ người Mỹ, Sonora Smart-Dodd, vận động để thừa nhận vai trò làm cha cũng giống và bằng vai trò làm mẹ vậy. Để nhớ ơn người cha một mình đã nuôi dưỡng bà lớn khôn, bà đề nghị lấy ngày 19 tháng 6 làm ngày lễ Cha. Năm 1924, Tổng thống Mỹ Calvin Coolidge đồng ý chọn một ngày trong năm dành riêng tưởng nhớ công ơn người cha nuôi dạy con cái, nhưng mãi tới năm 1966, Tổng thống Lyndon B. Johnson mới ban hành ngày lễ Cha "Father's Day" ở Mỹ. Đúng là ngày Chủ Nhựt thứ ba của tháng 6.

Nói là "Công cha như núi Thái Sơn" nhưng cho tới ngày nay, ngày lễ Cha vẫn chưa được đồng đều chánh thức thừa nhận để cho ngày đó có một chỗ xứng đáng trong lịch như những ngày lễ khác.

Thân phận đàn ông

Địa vị đàn ông trong gia đình và xã hội ngày nay đã xuống cấp thảm hại thì địa vị Cha theo đó cũng không thể khá hơn. Các bà có được đầy đủ quyền lợi, cả quyền có con mà không cần vai trò người cha để sanh con thì dĩ nhiên người cha không còn chỗ đứng, trên thực tế và trên luật pháp. Rồi hai bà họp nhau làm một gia đình, kẻ làm cha, người làm mẹ. Thì cha ơi, cha ở đâu?

Trong gia đình đề huề cha lẫn mẹ thì người cha phải chia sẻ nghĩa vụ làm cha với người mẹ. Mẹ sanh con, nghỉ chăm sóc con có ăn lương thì cha cũng có quyền nghỉ ăn lương thế người mẹ để người mẹ đi làm trở lại. Bình thường, ngày nay, người cha hay đàn ông, trong nhà phải lãnh làm ít nhứt  phân nửa công việc nhà với bà vợ. Nếu người đàn ông thất nghiệp thì bao trọn gói công việc nhà của bà vợ, tức từ đi chợ, nấu cơm, rửa chén, lau nhà, lo cho con nhỏ,... Khi lãnh vai trò của bà vợ, họ luôn luôn  chu toàn không thể chê vào đâu được và thường có nhiều sáng tạo hơn người phụ nữ.


Ngày nay, cái cảnh chồng đi làm về, bà vợ đón cởi áo, máng lên giá, cởi giày cho, đem khăn nóng cho lau mặt để ông ngồi phô-tơi nghỉ mệt, đọc báo hay coi TV, đã đi vào lịch sử văn minh nhơn loại từ lâu lắm rồi.

Xã hội ngày càng văn minh thì vai trò người đàn ông hay người cha cũng đồng thời thay đổi. Người Cha không còn là hiện thân của quyền lực gia đình nữa. Từ nay, ông không còn thừa hưởng cái quyền đàn ông hay quyền làm cha một cách đương nhiên như ngày xưa. Cả ở nước còn ảnh hưởng thứ Tống nho: quyền của người cha là thứ quyền tuyệt đối "Phụ xử tử vong, tử bất vong, bất hiếu" cũng đã bỏ. Tức ý muốn nói ông không còn "sanh ra là cha, mà ông trở thành người cha" (Simone de Beauvoir, Người phụ nữ không phải sanh ra là phụ nữ mà họ trở thành phụ nữ). Thực tế, có hơn phân nửa số đàn ông xác nhận đồng ý chấp nhận sự chọn lựa vai trò mới này dành cho mình. Tuy cả hai cùng đi làm.

Từ nhiều thế kỷ qua, Âu châu chịu ảnh hưởng mô hình người cha theo La-mã nên đây quyền lực. Cũng giống như văn hóa Tống nho, người cha bỗng trở thành một thứ bạo chúa, thần Jupiter, nắm tất cả quyền hành đối với con cái và vợ, người ăn người làm.  Một thứ quyền sanh sát như của một nhà vua. Tuy nhiên, quyền này chỉ có trên lý thuyết hơn là trên thực tế. Người cha theo La-mã có cả quyền chọn lựa con cái. Ông có thể từ chối đứa con ngay lúc mới sanh và chọn con, cả người cpn này đã trưởng thành.

Thiên chúa giáo có làm dịu bớt sự thái quá nhưng tư tưởng căn bản vẫn không thay đổi. Trong xã hội quân chủ xưa, người cha hành xử quyền bính đối với mọi người trong gia đình cũng như ông vua đối với thần dân. Cách mạng Pháp xóa bỏ quan niệm này, mọi người là công dân của  quốc gia. Xã hội từ nay gồm những cá nhơn bình đẳng với nhau. Và người cha trở thành «người cha gia đình» của mình. Ông là cột trụ gia đình, nền tảng xã hội. Con cái tới 21 tuổi trưởng thành, có đời sống độc lập.

Người cha trong gia đình Việt nam

Theo Bà Mariam Darce Frenier Giáo sư lịch sử Đại học Minnesota về người Phụ nữ Huê Kỳ và các nước Đông Nam Á, tức Việt nam, thì địa vị người Phụ nữ Việt nam có tính chất đặc biệt hấp dẫn ở chỗ đã từng và đang ở mức độ cao hơn so với địa vị của Phụ nữ ở các nước trong vùng. Mà địa vị phụ nữ đo lường cho kết quả rõ ràng nhứt chỉ bằng cách đem so sánh với địa vị người đàn ông nơi người Phụ nữ sanh sống. Thí dụ, trong xã hội Triều tiên, người chồng phải thể hiện phẩm cách, người vợ phải biểu lộ sự tuân phục. Có như vậy thì gia đình mới được yên ấm nhờ được cai quản tốt. Trong lúc đó, theo Giáo sư William S. Turley cho rằng “Vai trò của Phụ nữ Việt nam trong xã hội truyền thống được xác định bởi một sự pha trộn phức tạp mà hấp dẫn giữa đạo đức Nho Giáo, các tập quán bản địa mang theo dấu vết của chế độ mẫu hệ, và các đạo luật chánh thống đầy mâu thuẫn; nó lại càng trở nên phức tạp hơn bởi sự thâm nhập của từng yếu tố nói trên, ở mức độ khác nhau, vào đới sống của xã hôi (William S. Turley, Phụ nữ trong cách mạng cộng sản ở Việt nam, Nghiên cứu Á châu, Tập 12, năm 1972, trong “Gia đình và Địa vị người Phụ nữ trong xã hội, xb Khoa học xã hội”, Hà nội, 1995).  Một học giả khác, Yu Insun, nhận xét người Phụ nữ Việt nam trong quan hệ với chồng trong gia đình “Nếu như gia đình Trung hoa đặc trưng bởi quyền lực của người cha trùm lên tất cả các thành viên trong gia đình, thì gia đình Việt nam nổi bật ở địa vị người vợ bình  đẳng với chồng và bởi sự khẳng định cá nhơn của các thành viên trong gia đình (Yu Insun, Luật pháp và gia đình ở Việt nam, thế kỷ 17 và 18, trong Gia đinh và Địa vị người Phụ nữ trong xã hội,sdd).

Người Phụ nữ Việt nam trong xã hội thời quân chủ vẫn được sống đúng nhơn phẩm của mình nhờ được tương đối cân bằng với địa vị người cha, người chồng. Của chồng, công vợ.

Chỉ khi người cộng sản tới làm giải phóng Phụ nữ thì người Phụ nữ Việt nam mới làm nhiệm vụ của đàn ông ở chiến trường, đảm nhiệm thay đàn ông những công việc nặng nhọc và nguy hiểm. Khi chiến tranh giải phóng thành công thì người Phụ nữ Việt nam được Nhà nước cộng sản xuất cảng lao động, bán rẻ ra nước ngoài làm đủ thứ nô lệ, ở trong xứ, biến thành công cụ phục vụ cho sanh hoạt của đàn ông có chức quyền. Như cô giáo phải đi hầu rượu các ông quan chức.

Nguyễn Thị Cỏ May

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.