Hôm nay,  

Suy Niệm Mùa Vu Lan

02/09/201806:17:00(Xem: 5050)
blank

SUY NIỆM MÙA VU LAN


Camli Nguyễn Thị Mỹ Thanh



Trong những năm tháng xa xưa, tôi thường cùng với Má đi qua chùa mỗi dịp lễ Vu Lan. Má trung thành với Tịnh xá này. Tịnh xá ở gần nhà, và là nơi Má thân thiết từ nhiều năm. Đó là nơi Má dẫn dắt một “ca đoàn” nho nhỏ (chữ của Má nói vui) mỗi khi tụng niệm. Thuở đó Má còn khỏe, giọng Má vững vàng, vang xa. Hàng tuần Má đều qua tụng kinh bên chùa. Cả nhóm cứ theo Má mà tụng. Hôm nào Má bận việc không đến, mấy cô bác trong nhóm nói là “thiếu người bắt giọng” tụng không hay. Các con ghẹo Má: “Má như là một ca sĩ ấy!” Má yêu cảnh chùa, yêu chốn tĩnh mịch, nhưng cũng là nơi “có tính xã hội hóa cao”, nói theo cách mới bây giờ. Ở đó, Má thấy vui vì làm được nhiều việc Má thích, như giúp Sư Bà và các sư cô lo việc cúng Phật, gặp gỡ các đạo hữu, chuyện trò an ủi nhau…


Mỗi mùa Vu Lan, chúng tôi được nghe Sư Bà giảng về giai thoại Đức Mục Kiền Liên cứu mẹ ở chốn địa ngục. Sư Bà giọng ấm, tiếng rõ ràng, diễn giải ý nghĩa của câu chuyện, khuyên mọi người làm lành lánh dữ. Trong mùa Vu Lan, tâm tư chúng ta hướng vọng “cửu huyền thất tổ”. Thành ngữ này đã trở nên rất quen thuộc, giải thích thì hơi phức tạp, nhưng hiểu thì rất nhanh, chính là ông bà cha mẹ của chúng ta từ nhiều kiếp trước.

Tôi đi xa, không còn dịp đi chùa cùng với Má. Má vẫn dẫn dắt “ca đoàn” của Má, không những ở chùa, mà còn đi đến những gia đình cần lời kinh tiếng kệ, hoặc để cầu an cho người đang bệnh, hoặc để cầu siêu cho người đã qua đời.

Sư Bà nay đã viên tịch. Má không còn tỏ mắt như xưa. Má chỉ đi chùa mỗi khi có dịp đặc biệt. Dù ít, nhưng đó vẫn là một sinh hoạt không thể thiếu.

Mùa Vu Lan, mùa báo hiếu! Đến mùa Vu Lan, người ta cầu nguyện cho ông bà cha mẹ, nếu đã qua đời thì được siêu thoát, nếu còn sống thì được khỏe mạnh an vui. Riêng chữ “hiếu” cũng có nhiều thay đổi. Tôi còn nhớ lúc học ở bậc trung học, học trò ai cũng biết những câu chuyện trong “Nhị Thập Tứ Hiếu”. Tôi thích nhất bài “Mẫn Tử Khiên”, được ông Lý Văn Phức dịch và viết với thể thơ song thất lục bát rất dễ học, dễ nhớ:

Thầy Mẫn Tử rất đường hiếu nghĩa,
Xót nhà huyên quạnh quẽ đã lâu.
Thờ cha sớm viếng, khuya hầu,
Chẳng may gặp phải mẹ sau nồng nàn.

Trời đương tiết đông hàn lạnh lẽo,
Hai em thời áo kép, mền bông,
Chẳng thương chút phận long đong,
Hoa lau nỡ để lạnh lùng một thân.

Khi cha dạo, theo chân xe đẩy,
Rét căm căm nên xẩy rời tay,
Cha nhìn ngẫm nghĩ mới hay,
Nghiến răng rắp cắt đứt dây xướng tùy.

Sa nước mắt, chân quỳ, miệng gửi:
Lạy cha, xin xét lại nguồn cơn,
Mẹ còn, chịu một thân đơn,
Mẹ đi, luống những cơ hàn cả ba.

Cha nghe nói cũng sa giọt tủi.
Mẹ nghe rồi cũng đổi lòng xưa,
Cho hay hiếu cảm nên từ,
Thấm lâu như đá cũng rừ, lọ ai?

Tôi thích chuyện thầy Mẫn Tử vì ngoài ca ngợi lòng hiếu thảo, chuyện còn có ý nghĩa về lòng nhân đạo và sự thứ tha. Tôi cũng thích chuyện thầy Tử Lộ đội gạo nuôi mẹ mà nghệ sĩ Hữu Phước diễn tả qua bài vọng cổ “Đội Gạo Đường Xa” của soạn giả Kiên Giang, sâu sắc, thấm vào lòng người; hay chuyện Lão Lai Tử đã bảy mươi tuổi nhưng vẫn ăn mặc sặc sỡ, múa hát, thậm chí cất tiếng khóc “oa oa” để làm vui cha mẹ.

Nhưng không phải chuyện nào cũng tốt. Sau này tôi vẫn thường chia sẻ với các bạn rằng chúng ta không nên rập khuôn chữ hiếu, nhất là với cái học lấy mẫu mực từ văn hóa Trung Hoa có thể không phù hợp. Điển hình là trong “Nhị Thập Tứ Hiếu” có chuyện kể nhà kia rất nghèo, đến mùa đói kém không có thức ăn, trong nhà có bà mẹ già yếu và đứa con nhỏ, hai vợ chồng vì “hiếu với mẹ” nên đem con đi chôn để bớt đi một miệng ăn, cho mẹ có cơ hội được ăn nhiều hơn. Chôn sống đứa con, Trời ạ! Tôi kịch liệt phản đối.

Sống ở hải ngoại, nhất là nước Mỹ, nhiều người nghi ngờ rằng chữ “hiếu” không còn. Tôi thì tin rằng có. Bàng bạc trong mỗi người con đều có chữ hiếu. Chỉ khác là chữ hiếu không trở thành một cái gì bắt buộc do nề nếp gia đình hay truyền thống dân tộc, từ những bài học đã thành khuôn mẫu cho mọi người. Lòng hiếu vẫn có, và có thể hiện, nhưng theo tự nhiên.

Và chắc có lẽ cũng vì xã hội chăm lo cho người già và người bệnh khá chu đáo nên những người con không cảm thấy quá khó khăn khi cha mẹ đã già. Nước Mỹ có chương trình “In Home Supportive Services” , tùy theo mức độ bệnh tật của người già, chính phủ sẽ cung cấp tiền giúp đỡ để con cái có thể thuê người chăm sóc cha mẹ khi mình phải bận bịu đi làm. Còn một chọn lựa khác nữa, đó là nursing home. Có người bảo vào nursing home chán và buồn lắm; có người bảo sẽ tự nguyện vào nursing home khi mình không còn tự phục vụ chính mình nữa, để con cái khỏi bận tâm. Điều quan trọng là về phần con cái, có thường xuyên thăm viếng cha mẹ hay bỏ mặc các cụ trong cảnh cô đơn?

Trong tháng Bảy âm lịch, nhiều nhà ở xóm tôi ngày trước thường nhộn nhịp cúng “cô hồn”. Đây là dịp để trẻ con lối xóm tụ lại trước những ngôi nhà, chờ gia chủ cúng xong là xông vào giành những khúc mía, củ khoai, bánh, kẹo và những đồng bạc cắc. Mấy người lớn gọi bọn trẻ là “cô hồn sống”. Nghe cũng vui vui. Má thì không cho tụi nó chen lấn giành giật. Má bảo:

“Mấy đứa đứng yên, không chen lấn, bác cúng xong sẽ phát đều cho công bằng nghen!”

Thế là bọn trẻ đứng yên. Tụi nó nể Má lắm. Mấy người được gọi là “tụi nó” giờ đây cũng đã thành tài hết cả rồi! Xóm tôi nhà cửa mọc thêm lên, chật chội. Người xóm tôi kẻ mất người còn.

Đó là chuyện ngày xưa. Bây giờ ở trong nước người ta cúng kiến càng ngày càng nhiều. Tháng Bảy âm lịch, nghề làm vàng mã tha hồ trăm hoa đua nở. Người ta đua nhau sắm nhà, sắm xe và trăm thứ tiện nghi cho người đã khuất, cho rằng họ có thể “xài” những món ấy. Hàng bằng giấy có khi to bằng hàng thật. Nhà càng giàu càng cúng cô hồn rôm rả. Đám đông người lớn con nít chen lấn “giật cô hồn”. Chủ nhà sợ bị cướp giật nên lên lan can lầu rải tiền xuống. Bên dưới, người người chen chúc xô đẩy nhau để hứng tiền. Có người bày ra “sáng kiến” hứng tiền bằng cái lồng gà to tướng có lót vải cho chắc ăn, tiền khỏi rơi ra ngoài. Nhiều em bé đi lượm tiền, bị người lớn đè muốn bẹp dí, mặc kệ, miễn hôm đó kiếm được đủ tiền mua tô phở.



Những người cộng sản vào chiếm miền Nam Việt Nam, đả phá việc tín ngưỡng, cho đó là mê tín dị đoan. Vì thế có một thời người dân không dám bày tỏ niềm tin tôn giáo của mình. Riêng chuyện “cúng cô hồn” cũng làm rất kín đáo. Bởi người ta không muốn bỏ đi một tập quán lâu đời là cúng trong tháng Bảy để cầu an vui cho gia đình cũng như nơi làm việc. Một số công sở, ban đầu rụt rè, lén lút bày bàn cúng “cô hồn” rồi nhanh tay dẹp, miễn cho “có lệ kẻo ôn mệ la”, không dám để cấp trên biết. Dần dần tục lệ cúng cô hồn phát triển, ngay cả những người gọi là “cán bộ” cũng tin tưởng và cúng tế, phô trương nhiều hơn cả “thường dân”, thật lạ!

Đến nay thì chuyện cúng vàng mã thịnh hành hơn cả trong thời chưa cộng sản. Người đã khuất đi đâu, về đâu? Họ “xài” những món hàng ấy như thế nào? Không ai trả lời được. Chỉ có một điều rất dễ hiểu là càng cổ súy cho việc mê tín đị đoan, càng có nhiều người được lợi. Và có cái lợi gì cho tâm hồn của con người không? Đó là chưa kể chuyện mua thần bán thánh. Đức Thánh Trần, vị anh hùng của dân tộc, cùng bao nhiêu vị anh hùng khác, đã bị lạm dụng để người ta có chỗ đi mua lộc, mua chữ. Bao giờ dân tôi mới hết cảnh này?

**

“Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn.”

Ai nghe những câu thơ trên, trong tuyệt tác “Chinh Phụ Ngâm Khúc” của Đặng Trần Côn, qua nét bút diễn nôm của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm mà không chạnh lòng nghĩ đến các chiến sĩ vô danh đã bỏ mình vì đất nước?

Trong tháng Bảy, mùa lễ “Xá tội vong nhân”, tôi ngậm ngùi tưởng nhớ những người bạn của tôi, khoác áo trận, ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ. Có người còn về được trong quan tài, nhưng có người ở lại mãi mãi trong rừng núi, thân xác không biết về đâu. Chỉ còn lại trong trí nhớ của người thân và bè bạn tiếng cười, câu nói của họ.

Trong tháng Bảy, mùa lễ “Xá tội vong nhân”, tôi cầu nguyện cho linh hồn những người chết trong chiến tranh, những người chết trên đường vượt biên vượt biển tìm tự do.

Tháng Bảy năm nay, trong bối cảnh cuộc khủng hoảng di dân, hình ảnh một em bé trai người Syria, ba tuổi, bị sóng cuốn tấp vào bãi biển Thổ Nhĩ Kỳ, đã làm cả thế giới rúng động. Aylan Kurdi nằm bình yên, vô tư như còn sống. Hình ảnh của em như một lời cáo buộc rằng ngay trên dương gian này, có những chốn còn đau thương hơn cả địa ngục, xui khiến người ta phải quyết định lìa bỏ mà đi.

**

Mùa Vu Lan. Có lẽ nhiều người còn được niềm vui mang bông hoa màu hồng trên áo, nhưng cũng có nhiều người thổn thức với màu hoa trắng. Tôi hiểu, những người con, cho dù có lớn có già bao nhiêu, ngày mất cha mất mẹ là ngày cả bầu trời sụp đổ. Tôi đã thấy một người, thường ngày rất cứng cỏi, nhưng khi mẹ qua đời, anh đã khóc như một đứa trẻ. Khi tiễn mẹ xuống lòng đất, anh đã nhoài cả nửa người xuống như muốn theo cùng mẹ.

Tôi cũng vậy, khi Ba mất, cả năm trời sau tôi mới nguôi ngoai. Giây phút đưa Ba vào nơi hỏa táng, tôi như đứa bé bị người ta lấy mất đi một cái gì quý báu vô cùng. Ba ơi, từ đó Ba đã biến mất!

Bạn tôi, T.C., mẹ mất sớm. Ai có hiểu trong con người nghiêm nghị thường ngày giảng đạo pháp trước bao nhiêu người, là nỗi thao thức nhớ đến mẹ của mình hằng đêm. Chị viết trong bài “Cổ Tích”:

“Má tôi mất, tôi không khóc nhưng lòng không sao nguôi ngoai được…”

Một khuya, kiểng thức chúng, tự nhiên tôi nghe như tiếng má tôi gọi tôi. Tôi bật dậy, bàng hoàng, chợt nhận ra chuyện cổ tích có thật. Lòng tôi nhẹ bổng, thương nhớ như nguôi ngoai. Má vẫn ở cạnh tôi, chăm chút tôi như bao giờ.

Tình cờ cũng mùa hạ năm đó, khi tự tứ, trên mỗi phần quà chia chúng, sư Trụ trì tôi gắn cho mỗi người một đóa hồng nhung ĐỎ thắm. Sư bảo:
“Mẹ thì không bao giờ mất.”

Tôi vừa gói quà vừa đáp bằng giọng chắc nịch:
“Đúng rồi cô! Mẹ thì không bao giờ mất.”

Lễ Vu Lan và lễ “Xá tội vong nhân” ở cùng trong tháng Bảy âm lịch. Trong mùa lễ này, chúng ta cùng suy niệm những điều giữa sự sống và cái chết. Một bác vừa qua đời, cây hoa wisteria trong vườn nhà bác bỗng dưng tàn héo, đổ gục. Nhưng mấy hôm sau, nhiều loài cây khác lại trỗi dậy và nở hoa. Người thân của bác qua sự mất mát cũng cảm thấy một niềm an ủi. Không có gì là chấm dứt. Tất cả đều sẽ bắt đầu.

Để tạm dứt về những suy niệm tản mạn tháng Bảy, có lẽ thật đầy ý nghĩa khi chúng ta cùng thưởng thức bài thơ “Do Not Stand At My Grave And Weep”của Mary Elizabeth Frye, bà viết để an ủi một người con gái đau buồn vì không được ở bên mẹ trong những giây phút cuối đời.

Do not stand at my grave and weep
I am not there; I do not sleep.
I am a thousand winds that blow,
I am the diamond glints on snow,
I am the sun on ripened grain,
I am the gentle autumn rain.

When you awaken in the morning’s hush,
I am the swift uplifting rush
Of quiet birds in circled flight.
I am the soft stars that shine at night.
Do not stand at my grave and cry,
I am not there; I did not die.

Nữ nhạc sĩ Trần Bảo Như đã viết lại bài thơ này thành nhạc phẩm “Tôi Vẫn Quanh Đây”. Tôi xin mượn bản nhạc này để khép lại những dòng tản mạn về suy niệm mùa Vu Lan, tháng Bảy.

Đừng đứng bên mộ tôi rơi nước mắt,
Tôi đâu ngủ nơi lòng đất khô cằn
Tôi trong ngàn cơn gió thoáng mơn man
Trong lấp lánh ngút ngàn hoa tuyết trắng.

Đừng đứng bên mộ tôi rơi nước mắt
Tôi đâu ngủ nơi lòng đất khô khan
Tôi nắng tung tăng trên đồng lúa chín vàng
Trong thu êm dịu lất phất mưa giăng.

Tinh sương giá băng lúc anh thức dậy
Tôi là bóng chim thoắt chốc vụt bay
Rời lũ chim ngoan lao xao chung bầy
Như cánh thiên di xa bay xứ lạ.

Khi đêm tối buông lối anh đi về
Tôi ngàn cỏ lá đón bước chân quen
Còn nếu khi người ưu tư riêng bóng
Tôi ánh sao xa góc trời mơ ảo.

Đừng đứng bên mộ tôi trong sầu não
Tôi không ở đó, tôi vẫn quanh đây
Tôi áng mây bay lãng đãng theo ai
Trong ráng sớm hừng đông ai thức dậy.

Đừng đứng bên mộ tôi mắt lệ rớm
Tôi không ở đó, tôi vẫn quanh đây…

Camli Nguyễn Thị Mỹ Thanh
Tháng Bảy âm lịch 2015 

(Nguồn: Yêu Nước VN)
 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.