Hôm nay,  

ÂN ĐỀN NGHĨA TRẢ

01/02/201914:14:00(Xem: 6202)

ÂN ĐỀN NGHĨA TRẢ
 

Nguyen Nguyet Minh
 

Trong bữa ăn tuần trước, cháu ngoại Hưng của tôi nói chuyện về việc gây qũy của lớp cho chuyến đi thăm Hoa Thịnh Đốn. Hưng năm nay 13 tuổi, học lớp 8. Nhóm bốn đứa bạn thân của cháu rất hứng thú về dự án này. Chúng bàn nhau bán bánh. Mẹ của Ray sẽ giúp làm bánh ngọt với chocolat; Marc định làm bánh pie; Mẹ Sam sẽ làm bánh dẻo đặc biệt của người Nhật.

“Mình có thể làm gì hả Ba?” Hưng hỏi.

“Con muốn làm gì? Bánh ngọt với yến mạch? Mình có thể làm nhiều loại khác nhau…”

“Hay mình làm chả giò?” Tôi xen vào.
 

Tôi thích sự đóng góp thức ăn từ những nền văn hóa khác nhau. Chế biến các loại thục phẩm đa dạng như những đứa trẻ này: cơm dẻo Nhật, chả giò Việt Nam..., rồi đem đi bán để giúp chúng có phương tiện cho chuyến đi đến thủ đô, nơi được coi là đại diện cho chúng.

“Bà có thể giúp cháu làm chả giò,” tôi nói.

“Thật sao Bà? Hay quá! Ai cũng thích ăn chả giò! Chả giò của bà ngon hết xảy! Chắc sẽ bán hết ngay!”
 

Thế là hôm sau tôi đi chợ. Và hôm sau nữa chúng tôi bắt tay vào việc từ 10 giờ sáng: rửa rau, cắt rau, thái nhỏ, ướp thịt, lột vỏ và cắt tôm, các công việc cần thiết để làm nhân chả giò. Nhân của chúng tôi bao gồm thịt heo xay, tôm tươi, khoai môn, hành tây, cà-rốt, nấm mèo, củ sắn, đậu xanh hầm, bún tàu, và nhiều loại tương ướp khác nhau, vì thế chỉ làm nhân thôi đã mất nguyên buổi sáng. Mẹ và dì của Hưng bắt đầu cuốn chả giò lúc trưa. Cả 3 người mất 2 tiếng để cuốn 150 cái chả giò, và tôi đứng chiên hơn 3 tiếng. Chúng tôi làm một nửa nhân mặn và một nửa nhân chay, vì ở Berkeley không thiếu người ăn chay do họ chú trọng đến sức khoẻ.
 

Thế rồi hôm nay, vào ngày lễ tưởng niệm Tiến sĩ Martin Luther King Jr., bốn cậu con trai hăng hái đặt một chiếc bàn dài ngay tại chợ Berkeley Bowl West để làm việc thiện. Các cậu không làm để phục vụ cá nhân mình, mà để gây quỹ chung của trường, giúp các học sinh thiếu khả năng tài chánh có được cơ hội tham dự chuyến đi. Các cậu đặt tên cho bàn mình là Bàn Bánh Tu Chính Án thứ 14, bộ luật bảo vệ quyền bình đẳng của các cựu nô lệ da đen. Những người trẻ tuổi này hết lòng tin rằng mọi học sinh đều có quyền được tiếp cận với hệ thống giáo dục như nhau, ngay cả khi họ khác nhau về khả năng kinh tế và tài chánh. Các cậu ý thức rằng việc gây quỹ này đồng nghĩa với sự bảo vệ quyền lợi bình đẳng cho các bạn cùng trường.

Vì vậy, mặc dù đã thấm mệt sau một ngày làm việc dài, tôi thấy vui vì giúp được cháu và giúp cháu giúp người. Tôi nhớ những năm đầu mới đến Mỹ định cư, đang tranh đấu để tìm hiểu và hoà nhập với lối sống của người Mỹ, trong khi vẫn cố gắng gìn giữ phong tục tập quán của một gia đình Việt Nam. Từ một nước Việt bị chiến tranh tàn phá, chúng tôi trở thành cư dân của một nước Mỹ giàu mạnh, với mong mỏi duy nhất rằng các con sẽ được học hành để tạo nên một tương lai tốt đẹp cho chúng.

Như hầu hết những người mới định cư, chúng tôi đã ra đi chỉ với hai bàn tay trắng và manh áo trên người, nhưng đã hết sức làm việc để chu toàn cho gia đình. Chỉ vừa đủ ăn, nên chúng tôi không có điều kiện tham dự bất cứ các chuyến đi xa của trường hay các dự án đặc biệt nào vào thời điểm đó. Các cháu thấu hiểu hoàn cảnh tài chánh của gia đình nên chúng cũng ít khi nào xin đi. Tôi còn nhớ những giọt nước mắt rơi vì xấu hổ và buồn tủi khi buộc lòng từ chối chúng. Tuy nhiên, đối với những sinh hoạt quan trọng có liên hệ đến toàn lớp, trường đã không bỏ rơi các cháu. Các giáo sư và học sinh cùng lớp đã nỗ lực để gây quỹ tạo phương tiện cho các cháu cùng tham gia.

Không có sự giúp đỡ của thày và bạn thì đứa con gái lớn của tôi đã không có được chuyến đi Pháp đầu tiên trong đời dưới chương trình trao đổi sinh viên. Không có sự giúp đỡ đó thì đứa con gái kế lớp 11 đã không được viếng thăm Hoa Thịnh Đốn lần thứ nhất khi được tuyển chọn tham dự hội nghị sinh viên lãnh đạo toàn quốc. Mẹ của Hưng, con gái út, cũng đã nhận sự giúp đỡ tương tự để có khả năng đi Hoa Thịnh Đốn khi học lớp 8. Còn nhiều trường hợp giúp đỡ khác không nhiều bằng, mà bây giờ tôi không còn nhớ rõ.

Điều mà tôi không bao giờ quên được là kết quả của những giúp đỡ này. Sau ngày Sài Gòn sụp đổ hơn 40 năm về trước, quá nhiều người trong chúng ta đả bỏ nước ra đi tìm tự do. Nếu nước Mỹ không mở rộng vòng tay lúc đó, chúng ta đã không cách xây dựng lại cuộc đời. Nếu họ không cấp giấy phép làm việc, làm sao chúng ta nuôi con? Làm sao chúng ta có được mái ấm gia đình?  

Tim tôi rướm máu khi nhìn thấy những người tị nạn hiện nay bị khước từ quyền nhập cảnh. Họ đã bỏ nước ra đi như chúng ta 40 năm trước, cũng chỉ với niềm hy vọng tìm được một tương lai tốt đẹp hơn cho con. Những người đã định cư và đã nhận ân huệ ở xứ sở này, họ nỡ nào từ chối giúp đỡ những người mới đến có được quyền lợi tương tự như mình trước kia? Làm sao những người tị nạn mới có thể sinh sống? Làm sao có thể bắt một người mẹ phải lo lắng đến mức không dám nhận phiếu thực phẩm (food stamps) để nuôi con bởi vì sợ sẽ bị trục xuất? Thật quá sức tàn ác, phũ phàng! ‘Miếng khi đói bằng gói khi no’, sự giúp đỡ trong lúc đầu là quý giá nhất, đã cho phép gia đình chúng tôi sống sót, rồi ổn định và thành công, để sau cùng đóng góp cho xứ sở này bằng tất cả khả năng và tấm lòng của mình.

Cũng vì vậy, tôi đã xem cuộc gây quỹ này của cháu tôi là một việc làm rất tốt, xứng đáng để tôi bỏ công sức và chịu đau lưng trong vài ngày tới. Chúng ta giúp không phải chỉ để trả lại những gì ta đã nhận. Nhìn các cháu học cách giúp đỡ và che chở lẫn nhau, tôi nhận ra rằng, chúng ta thực sự trả ân nghĩa cho tương lai con cháu và cho chính chúng ta khi chúng ta tham dự vào các công tác xã hội.


Nguyen Nguyet Minh là một cư dân cao niên tại California và thành viên của hội phi đảng phái PIVOT (Hội Người Mỹ Gốc Việt Cấp Tiến). Bà gửi bài viết này cho Việt Báo.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.