Hôm nay,  

Cuộc Đánh Cá

07/03/201909:56:00(Xem: 5310)

Cuộc Đánh Cá

(The Bet)

của Anton Chekhov

bản dịch của Đào Văn Bình

Lúc bấy giờ là buổi tối mùa Thu. Người chủ ngân hàng già bước tới bước lui từ góc tường này tới góc tường kia, nhớ lại bữa tiệc mà ông khỏan đãi khách cũng vào mùa thu cách đây mười lăm năm.

Khách tòan là những người giỏi giang, khôn khéo. Họ nói chuyện vui vẻ. Trong những điều họ nói có đề cập tới án tử hình. Hầu như mọi người đều không tán thành án tử hình. Họ cho rằng án tử hình là hình thức trừng phạt lỗi thời và độc ác không thể chấp nhận được trong một xã hội gọi là văn minh. Một số đòi phải thay ngay án tử hình bằng án tù chung thân.

“Tôi không đồng ý,” người chủ nhà phản đối. “Theo tôi, án tử hình còn tử tế hơn là tù chung thân. Tử hình là chết ngay. Còn tù chung thân là chết từ từ. Cái nào sướng hơn? Chết ngay trong vòng vài giây hay kéo lê sự chết năm này qua tháng nọ?”

“Cái nào cũng khốn nạn cả,” một vị khách nói. “Mục đích của nó là lấy đi sự sống. Chính quyền không phải là Thượng Đế. Họ không có quyền lấy đi sự sống của con người. Họ không thể lấy đi cái gì mà họ không thể trả lại được.”

            Trong số thực khách có một luật sư trẻ, khỏang hai mươi lăm tuổi. Ông ta nói, “Cả hai đều ác độc như nhau, nhưng nếu được chọn một trong hai tôi sẽ chọn án tù chung thân. Thà sống lây lất chút ít còn hơn là chết.”

“Thật điên khùng!”

“Thật vậy đó!”

“Điên khùng!”

“Đúng vậy đó!”

            Người chủ ngân hàng, lúc bấy giờ còn trẻ hơn vị luật sư và nóng nảy hơn, mất hết bình tĩnh, nện tay xuống bàn rầm một cái, quay qua vị luật sư, nói lớn:

“Chỉ nói dóc! Tôi cá hai triệu rúp là anh không chịu nổi cảnh tù đày đâu, dù chỉ năm năm thôi.”   

“Anh không đùa chứ?” vị luật sư trẻ vặn lại.

Người chủ ngân hàng trẻ hăng hái gật đầu, mặt đỏ gay.

“Tôi chấp nhận đánh cá với anh. Nhưng không phải năm năm mà mười lăm năm!” Ông luật sư trẻ nói liền.

“Mười lăm năm! Mười lăm năm!” Người chủ ngân hàng trẻ cười lớn. Giờ thì ông ta cuồng nhiệt như thể người thắng cuộc. “Vậy là xong! Qúy vị đây là nhân chứng. Tôi cá hai triệu rúp. Còn anh cá mười lăm năm mất tự do.”

           Thế là cuộc đánh cá điên khùng xảy ra. Lúc bấy giờ người chủ ngân hàng có quá nhiều tiền và mất hết tự chủ. Trong suốt bữa tiệc ông ta tiếp tục nói về vụ đánh cá. Ông ta diễu cợt vị luật sư, “ Hãy suy nghĩ lại đi ông bạn. Chưa trễ đâu. Hai triệu không thấm thía gì với tôi nhưng ông bạn mất ba hoặc bốn năm đẹp nhất của cuộc đời. Tôi muốn nói ba, bốn năm thôi chứ không phải mười lăm năm đâu. Ông bạn không chịu đựng nổi đâu. Cho ông bạn hay. Những năm tháng đó sẽ là uổng phí. Nếu ông bạn xin ra trước thời hạn mười lăm năm thì tôi sẽ không cho ông bạn một đồng xu nào cả. Hãy suy nghĩ cho kỹ. Nhà tù của tôi không có khóa, không có chấn song sắt. Ông bạn có thể bước ra bất cứ lúc nào. Ý nghĩ đó chắc hẳn không mấy tốt cho bạn. Bạn sẽ bước ra. Tôi biết chắc như vậy. Sớm muộn gì bạn cũng sẽ bước ra!”

♦ ♦ ♦

            Giờ thì người chủ ngân hàng bước tới bước lui từ góc tường này tới góc tường kia, nhớ lại tất cả và tự hỏi “Tại sao mình lại đánh cá như vậy? Có ích lợi gì đâu? Tay luật sư thì mất đi mười lăm năm của cuộc đời, còn mình thì ném đi hai triệu rúp. Hai người đều lỗi lầm trong vụ đánh cá này. Mình là kẻ giàu có điên khùng, còn tay luật sư là kẻ ham tiền.”

            Ông ta tiếp tục nhớ lại những gì xảy ra sau bữa tiệc hôm đó. Cuộc đánh cá quy định rằng “nhà tù” dành cho ông luật sư trẻ nằm ở góc vườn của chủ ngân hàng. Trong suốt mười lăm năm anh ta không được bước qua ngưỡng cửa của “nhà tù”, không được nhìn thấy con người và nghe tiếng nói của con người. Không được nhận thư và đọc báo. Nhạc cụ thì được phép đem vào. Anh ta có quyền đọc sách và viết thư. Cũng có thể đòi hỏi một vài thứ. Tất cả những yêu cầu phải đưa qua một cánh cửa đặc biệt rồi do nhân viên canh gác đưa vào.

            Tất cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất của cuộc đánh cá đều được thảo luận và đồng ý. Thời gian ở tù bắt đầu từ trưa ngày 14 Tháng 11 năm 1870 và chấm dứt vào trưa ngày 14 Tháng 11 năm 1885. Ông luật sư trẻ không được vi phạm cam kết đã ký. Bất cứ hành động bỏ trốn hay “vượt ngục” nào dù chỉ hai phút thôi cũng khiến người chủ ngân hàng giải trừ trách nhiệm phải trả hai triệu rúp.

            Trong năm tù đầu tiên, nhận xét qua vài hàng chữ mà ông luật sư trẻ gửi ra là năm đầy cô đơn và buồn bã. Từ góc vườn ngày đêm vọng ra tiếng đàn dương cầm. Ông ta đọc những truyện ngắn dễ bao gồm các đề tài tình yêu, tội ác và hài kịch.

            Năm tù thứ hai thì không còn nghe tiếng đàn dương cầm nữa. Ông luật sư trẻ yêu cầu cho lọai nhạc cổ điển. Vào năm thứ năm thì tiếng đàn lại vang lên. Nhìn qua lỗ nhỏ, nhân viên canh gác thấy ông luật sự trẻ ngáp liên miên, lảm nhảm nói chuyện rồi tức giận cả với chính mình. Giờ thì ông ta không còn đọc sách. Vào ban đêm, thỉnh thỏang ông ta ngồi viết. Viết rồi sáng hôm sau lại xé đi. Thỉnh thỏang có nghe tiếng ông ta khóc.

            Vào những tháng cuối của năm thứ sáu, ông ta say mê đọc về ngôn ngữ, triết học và lịch sử khiến ông chủ ngân hàng phải chật vật lắm mới kiếm đủ sách cho “người tù” của ông ta đọc. Trong vòng bốn năm, khỏang 600 bộ sách đã phải chuyển vào theo yêu cầu. Kể từ sau năm thứ mười, ông ta chuyên đọc về Tân Ước rồi tiếp tục đọc về lịch sử tôn giáo.

            Vào hai năm cuối cùng, ông ta đọc rất nhiều, đủ mọi thứ. Ông ta thường yêu cầu sách nói về khoa học rồi thì Shakespeare. Những mảnh giấy gửi ra một lúc yêu cầu cả sách hóa học, tôn giáo và y khoa và cả tiểu thuyết nữa. Ông ta đọc như thể một người sắp chết đuối đang bơi trong trong một vùng biển đầy những mảnh ván vụn. Để sồng còn ông ta điên cuồng quớ hết mảnh nọ tới mảnh kia.

Người chủ ngân hàng nhớ lại tất cả và chợt nghĩ, “Ngày mai hắn ta sẽ được tự do. Theo giao kèo thì mình sẽ phải trả hắn hai triệu rúp. Nếu mình trả thì coi như trắng tay. Sự nghiệp vĩnh viễn tiêu tan.”

Mười lăm năm trước ông ta có quá nhiều tiền. Nhưng nay thì không biết nợ ông nhiều hơn hay tài sản của ông nhiều hơn. Ông đầu tư vào thị trường chứng khóan và thua lỗ. Công việc làm ăn thất bại. Một nhà doanh thương kiêu hãnh và không hề biết sợ là gì nay trở thành một người tầm thường và run lên với những lo lắng về tiền bạc.

“Cuộc đánh cá khốn nạn!” người chủ ngân hàng già lẩm bẩm.” Sao thằng luật sư đó không chết đi? Hắn mới có bốn mươi tuổi. Hắn sẽ ôm hết tiền bạc của mình. Rồi hắn sẽ lấy vợ và sống đời sống hạnh phúc. Còn mình, trông giống như một tên ăn mày thèm khát trước mắt hắn. Rồi hắn sẽ nói ‘ Để tôi giúp bạn. Cuối cùng thì tôi đạt được hạnh phúc là nhờ tiền bạc của bạn.’ Thật tủi hổ! Đổ vỡ và tủi hổ,” người chủ ngân hàng tiếp tục lẩm bẩm. “ Không! Quá lắm. Quá đáng cho bất cứ ai. Mình phải thóat cảnh đổ vỡ và tủi hổ này cho dù hắn có phải chết - cho dù hắn có phải chết!”

            Đồng hồ điểm ba giờ. Người chủ ngân hàng đứng và lắng nghe. Trong nhà mọi người đang say ngủ và ông ta có thể nghe được cả tiếng của những hàng cây băng giá đang than van ngòai ca sổ. Ông ta khóac vội chiếc áo pa-đờ-suy rồi bước ra ngòai. Khu vườn tối và lạnh. Lúc này trời đang đổ mưa. Luồng gió lạnh dường như giằng kéo với hàng cây xào xạc. Tới góc của khu vườn ông ta lên tiếng gọi người canh gác. Không có tiếng trả lời. “Tốt lắm,” người chủ ngân hàng nghĩ thầm. Hiển nhiên là nhân viên canh gác đã bỏ đi chỗ khác vì thời tiết xấu. Có thể anh ta đang ngủ ở trong nhà bếp hoặc nhà ươm cây.

“Nếu mình có giết thằng cha luật sư này thì người ta sẽ nghi cho nhân viên canh gác làm chuyện đó,”  người chủ ngân hàng thầm nghĩ.

            Trong bóng tối ông ta lần mò tìm cánh cửa. Cửa mở không một tiếng động. Trong phòng giam của người tù tỏa một luồng ánh sáng lờ mờ từ một ngọn nến. Ông luật sư đang ngồi cạnh bàn. Dưới luồng ánh sáng chập chờn của ngọn nến, ông chủ ngân hàng ta chỉ nhìn thấy lưng, tóc và tay của người tù. Trên mặt thảm, trên mặt bàn và hai cái ghế những cuốn sách đọc dở dang nằm vương vãi.

            Năm phút trôi qua, người tù vẫn ngồi bất động. “Có thể hắn đang ngủ”, người chủ ngân hàng thầm nghĩ. Ông ta bước tới. Trước mắt ông ta ngồi cạnh bàn không phải là hình hài của một con người bình thường. Đó là một bộ xương, da lõm vào, tóc uốn cong và dài như tóc đàn bà, râu ria bờm xờm. Khuôn mặt vàng bệt, má hóp. Đôi bàn tay dài thượt, ốm tong teo nhìn phát sợ. Tóc ông ta pha màu xám bạc khiến không một ai nhìn thấy mà nghĩ rằng ông ta chỉ mới bốn mươi tuổi. Trên mặt bàn, trước cái đầu gục xuống là một tờ giấy với những hàng chữ viết tay nhỏ xíu.

“Thật khốn nạn cho hắn,” người chủ ngân hàng lầm bầm. “Hắn đang ngủ và có thể đang mơ thấy hai triệu rúp. Mình chỉ cần quăng cái thân hình chết dở này lên giường rồi đè cái gối lên mặt hắn vài phút là hắn chết ngộp. Nhưng trước hết hãy đọc thử xem hắn viết gì.” Mắt người chủ ngân hàng chiếu vào tờ giấy:

            Ngày mai vào buổi trưa tôi sẽ trở lại với tự do. Nhưng trước khi rời căn phòng này tôi muốn nói với bạn đôi lời. Lương tâm tôi thanh thản và  tôi đứng trước mặt Thượng Đế và Thượng Đế nhìn tôi. Tôi nói thẳng với bạn rằng tôi coi khinh tất cả những cuốn sách bạn chuyển cho tôi gọi là hạnh phúc của loài  người. Trong mười lăm năm tôi đã nghiên cứu về cuộc sống rất trần tục. Trong những cuốn sách của bạn tôi đã đi săn nai và ca hát nghêu ngao. Trong những cuốn sách của bạn tôi đã leo lên đỉnh Mt. Blanc. Từ đó tôi đã ngắm nhìn mặt trời mọc vào buổi sáng. Trong những cuốn sách của bạn tôi đã làm những phép màu, thiêu rụi cả những thành phố, truyền bá những tôn giáo mới, chinh phục cả hòan cầu..

Những sách của bạn đã cho tôi trí tuệ. Tôi biết rằng tôi thông thái hơn tất cả các bạn. Bạn thật điên dại và đi sai đường. Bạn thờ phượng hình vật chứ không tôn thờ những ý tưởng. Bạn lấy sai lầm làm sự thực, lấy cái xấu làm cái đẹp. Tôi kinh ngạc vì bạn. Bạn đã đổi cả cung trời để lấy quả  đất trần tục này. Tôi thực tình không muốn tìm hiểu về bạn. Tôi cho bạn biết tôi coi khinh cách mà bạn đang kiếm sống, tôi không thèm hai triệu rúp mà trước đây tôi rất muốn. Tiền của bạn có mua được trí tuệ không? Không. Vì thế tôi sẽ ra khỏi nơi này năm phút trước kỳ hẹn vào trưa mai.  Như thế là tôi đã vi phạm giao ước.

            Khi đọc xong tờ giấy, người chủ ngân hàng già hôn lên đầu con người thật kỳ lạ. Ông ta bật khóc rồi bước ra ngòai. Chưa bao giờ, kể cả khi thua lỗ trên thị trường chứng khóan, ông ta lại thấy thù ghét mình như vậy. Trở lại căn phòng ông ta nằm xuống giường. Những giọt nước mắt tội lỗi làm cho ông ta lâu lắm mới có thể thiếp đi vào giấc ngủ.

            Sáng hôm sau ông ta thức dậy rất trễ. Vào buổi trưa nhân viên canh gác chạy đến báo cho biết người tù đã bỏ trốn. Người tù đã ra khỏi vườn, đi tới cổng rồi biến mất.

            Người chủ ngân hàng cùng nhân viên canh gác lập tức đi tới góc vườn. Đúng vậy, người tù không còn đó nữa. Để tránh những lời bàn tán ông ta nhặt tờ giấy ở trên bàn. Ông ta gấp đôi lại và khi trở lại  phòng ông ta cất kỹ vào trong tủ sắt an tòan./.

Bản dịch của Đào Văn Bình

(California 05/2009)

 

Anton Chekhov (1869-1904) là một nhà viết kịch và truyện ngắn nổi tiếng của Nga. Khi còn là một bác sĩ trẻ ông bắt đầu viết truyện ngắn và lần hồi nổi tiếng. Sau đó thì ông viết kịch và nhiều vở được trình diễn tại Moscow Art Theater. Những vở kịch như The Three Sisters, The Cherry Orchard và Uncle Vanya vẫn còn được ưa chuộng và được coi như những tác phẩm kịch nghệ quan trọng.



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.