Hôm nay,  

Từ những trang thơ

20/04/201904:36:00(Xem: 6729)

  

Từ những trang thơ

 

Hồ Thanh Nhã

  

 Phần 1-  Lăn theo vết xích.

Nhà thơ Thiết giáp Hồ Thanh Nhã nguyên quán ở Bến Tre.  Thuở nhỏ cha mẹ gọi là con mọt sách, thích văn chương, biết làm thơ từ năm 16 tuổi.  Lớn lên anh nhập ngũ khóa 25 sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức.  Mãn khóa Sĩ quan bộ binh, anh tình nguyện gia nhập binh chủng Thiết giáp.  Đang thụ huấn khóa Sĩ quan căn bản Thiết giáp tại Trường Thiết giáp thì xảy ra biến cố Tết Mậu Thân 1968.  Cả khóa anh 60 người phải lên xe M113 đi hành quân giải tỏa áp lực địch đang xâm nhập vùng ven đô Sài Gòn, chết hết 2 người bạn cùng khóa.  Mãn khóa Thiết giáp  anh được thuyên chuyển về phục vụ đơn vị tác chiến là Thiết Đoàn 5 kỵ binh hành quân vùng Long Khánh và các tỉnh miền Đông. Năm 1970 tham dự cuộc hành quân ngoại biên vượt qua đất Miên, đánh vào các mật khu địch tại vùng biên Ba Thu, Mõ Vẹt.  Đụng nhiều trận lớn ở đây: đồn điền cao su Chup, Liên tỉnh lộ 7 Krek, Dambe. .

Năm 1971 thuyên chuyển về Thiết đoàn 19 đóng ở Pleiku.  Tham dự cuộc hành quân giải tỏa Quốc lộ 14 từ Pleiku đi Kontum. Năm 1972 phá được chốt chặn núi Chu Pao  đẩy lui địch ra khỏi thị xã Kontum.  Sau đó ít tháng tham dự hành quân tái chiếm 3 quận Bắc Bình Định là Bồng Sơn, Tam Quan và Hoài Ân.  Năm 1973 thuyên chuyển về Thiết đoàn 6 Kỵ binh đóng ở Mỹ Tho, và phục vụ tại đây cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.  Tại đây anh có dịp gặp Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam Tư Lịnh Sư đoàn 7 Bộ binh. Cảm phục về đức tính can trường, tuẩn tiết năm 1975 của Tướng Nam nên sau nầy nhà thơ Hồ Thanh Nhã đã viết bài thơ Tướng giữ thành (Trang 97-Thi phẩm Hương thơ đầu gió ).  Trích:
 

                           Điếu Bastos trong gạt tàn đầy ắp

                          Dòng khói xanh còn lan tỏa triền miên

                          Tư lịnh nhíu mày lòng đau như cắt

                         Dấu chân chim hằn gương mặt chữ điền

 

                         Gió sông Hậu thổi qua giòng Bassac

                         Mang niềm đau về cửa biển sông Tiền

                         Tin chiến bại khiến lòng quân ngơ ngác

                         Lan xa dần qua biên giới Việt Miên

 

                         Người nằm xuống cùng hồn thiêng sông núi

                       Chết hiên ngang linh khí kết thành thần

                       Ơn nghĩa nặng nề quê hương bờ cõi

                       Tiếng còn lưu danh tướng chết theo thành
 

Sau biến cố 1975, hầu hết các Sĩ quan QLVNCH đều đi tù, người ở trại nầy, kẻ ở trại khác.  Trích Trại tù Sơn La-trang 36 – Thi phẩm Giọt Nắng Thiên Thu:
 

                      Sơn La nước độc giòng trong vắt

                      Trót hẹn cùng nhau một quảng đời

                      Thăm thẳm chin tầng sâu địa ngục

                      Chín tầng mòn mỏi cuộc rong chơi

 

Nơi đây điểm hẹn bờ sinh tử

Dãy trại ven đồi vắng…vắng thêm

Nước độc rừng thiêng đêm chướng khí

Huyệt sâu xí xóa kiếp ưu phiền

 

Sơn La cũng có đoàn sơn nữ

Thắm đậm tình người nghĩa quới nhân

Lên núi chặt măng triền bát ngát

Cho anh từng ống nứa cơm lam

 

Những gái Mường xưa giờ ở đâu

Gùi măng xuống núi trắng hoa đào

Sơn La đất chết tình sao đẹp

Mãn kiếp lưu đày cũng nhớ nhau

 

Cuộc chiến đã đi qua hơn 40 năm. Những người lính trẻ Thiết giáp năm xưa bây giờ đã già. Lưu lạc nơi xứ người lâu năm, họ nhớ quê hương, thân bằng quyến thuộc, nhớ đến những ngày tháng bảo vệ tổ quốc năm xưa. Họ hứa với nhau là về tham dự Đại hội Thiết giáp thế giới, tổ chức 2 năm một lần luân phiên tại nhiều tiểu bang.  Gặp nhau để mừng mừng tủi tủi, ôn lại những kỹ niệm xưa, nhớ lại hình bóng bạn bè đã nằm xuống , . Kỷ niệm chập chùng đã đi qua cuộc đời hơn 40 năm. nhưng tâm tình những người lính Thiết giáp già vẫn y nguyên như ngày xưa còn khoát áo lính.  Đó là tình huynh đệ chi binh. Xin trích bài Hội ngộ – Trang 32 – Tập thơ Giọt Nắng ThiênThu:
 

Anh đến từ bờ Đông

Mùa nầy cây đỏ lá

Nghẹn ngào nơi xứ lạ

Bát ngát tình núi sông

 

Anh về nơi biển Nam

Mưa sụt sùi bán đảo

Vài con chim báo bảo

Trốn gió bờ đá xanh

 

Anh mang thắm thiết tình

Chút nắng vàng châu Úc

Xa rồi thời hỏa ngục

Cửa khép đời chiến chinh

 

Long lanh hàng nước mắt

Rõ trên bờ mi đen

Bàn tay nghe ấm áp

Ánh nắng bờ sông Seine

 

Người đi qua cõi chết

Người từ giã lao tù

Người  về từ xứ tuyết

Người đến từ thiên thu

 

Bây giờ những người Kỵ binh năm xưa đã già, một số mang nhiều thương tích trong chiến trận kể cả lao tù:
 

Người về từ An Lộc

Người đến từ Chu Pao

Đánh lớn vùng Tam giác

Vết thương chiều Xuân nào ?

 

Điếu thuốc chuyền tay đỏ

Trên đỉnh đèo An khê

Dãy Poncho nằm đó

Chờ trực thăng đưa về.

 

Sau một trận đánh lớn, buổi chiều rút quân ra vùng an toàn, nhiều khi cả xa đội chỉ còn 1 điếu thuốc .  Ba bốn người chuyền tay nhau chia từng hơi thuốc.  Đúng là tình huynh đệ chi binh.  Bên cạnh xe Thiết giáp là dãy xác chết đồng đội bó trong tấm vải áo mưa Poncho chờ trực thăng đưa về nghĩa trang.  Thật là những hình ảnh bi tráng trong trận chiến mà những người lính Thiết giáp vào sinh ra tử khó lòng quên dù đã xảy ra trên 40 năm rồi:

 

Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi

Dục ẩm tì bà mã thượng thôi

Túy ngọa sa trường quân mặc tiếu

Cổ lai chinh chiến kỹ nhân hồi

( Bồ đào chén ngọc khuyên mời

Tiếng tì trên ngựa dục người ra đi

Sa trường nghiêng ngã cười chi

Xưa nay chinh chiến mấy khi trở về )

 

Đó là 4 câu thơ cổ của Vương Hàn trong bài Lương Châu Từ.  Kể lại cuộc đời chinh chiến bi hùng của người lính kỵ binh ngày xưa thế nào thì người lính kỵ binh thời đại nầy cũng như thế ấy. Khi tử trận, người tử sĩ kỵ binh ngày xưa được bọc thây bằng da chính con ngựa của chính mình.  Còn tử thi người kỵ binh ngày nay được gói kín bằng chiếc áo mưa Poncho của chính họ, được lãnh từ ngày đầu nhập ngủ.  Sau một trận đánh lớn, từng dãy Poncho xác chết nằm kế bên chiến xa chờ trực thăng tới chở về nghĩa trang .  

 

Người lính Kỵ binh đi vào cuộc chiến với tâm tình trong sáng của tuổi trẻ, một lòng một dạ chiến đấu vì quê hương. Nhưng mũi tên lằn đạn biết đâu mà lường. .  Trong Chinh phụ ngâm có các câu:
 

 Hồn tử sĩ gió ù ù thổi

Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
 

Phải ! Cái chết đến với người lính bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu trong cuộc chiến vừa qua.  Trong bài Nghĩa Trang – trang 90 – Thi phẩm Giọt Nắng Thiên Thu:

 

Ở đây lớp lớp mồ vô chủ

Nào có ai dành một nén hương

Ở đây tối tối hồn oan khóc

Tiếng dế đêm sâu não nuột buồn

 

Bao nhiêu mộ chí nằm nghiêng đỗ

Bạn với trâu bò mỗi giấc trưa

Lối nhỏ hoang tàn gai mắc cở

Nào ai thăm viếng lúc sang mùa

 

Trong nghĩa trang nầy, tất cả đều bình đẳng.  Mộ họ nằm kế bên nhau, không phân biệt cấp bậc, chức tước.  Mộ anh binh nhì nằm kế mộ ông Tướng, tất cả đều bình đẳng như khi họ còn sống. Tình huynh đệ chi binh được biểu hiện rỏ ràng trên từng giòng chữ khắc trên mộ chí:

 

Ở đây bình đẳng nằm thanh thản

Kẻ trước người sau những dãy mồ

Ở đây tất cả là huynh đệ

Mật thiết nhau từ mảnh vải sô

 

Người sống hôm nay còn thẹn mặt

Với hồn tử sĩ với trăng sao

Ngoài kia pho tượng đi đâu mất

Chiếc bệ còn nguyên nỗi nghẹn ngào

 

Từ đấy miền Nam thành khánh tận

Sạch trơn bờ cỏi trắng tay chung

 

Nổi trôi vận nước bèo mây dạt

Xí xóa cho rồi cuộc phế hưng

 

Tủi thân người lính nằm trong mộ

Nợ máu xương nầy biết hỏi ai

Đêm bấc hồn oan theo bóng đóm

Vật vờ ghềnh bãi. . ánh ma trơi

 

 

Nhà thơ Thiết giáp Hồ Thanh Nhã đã đưa hết cuộc đời chinh chiến của mình: Lăn theo vết xích, vào 2 Thi phẩm:-Giọt Nắng Thiên Thu , tái bản lần thứ 2 và Hương Thơ Đầu Gió –Xuất bản tháng 12 năm 2016. Ai cần xin vui lòng liên lạc với tác giả.

   

 

               Phần 2: - Tình bạn tri kỷ  giữa nhạc sĩ Hào Quốc – Canada – và nhà thơ Thiết giáp Hồ Thanh Nhã  - Nam California –USA.

 

Năm 2010 Nhà thơ Thiết giáp Hồ Thanh Nhã thường gởi Thơ đăng ở tuần báo Thời Báo –Toronto-Canada.  Nhạc sĩ Hào Quốc ở gần Vancover-Canada –đọc được bài thơ Tìm mộ, xúc động và viết ngay bản nhạc cùng tên trong vòng 30 phút.  Sau nầy nhạc sĩ Hào Quốc liên lạc với ông  Đỗ Quân –chủ bút tuần báo nầy để xin địa chỉ Email của nhà thơ  Hồ Thanh Nhã và hai bên liên lạc với nhau từ đấy. Hào Quốc Mail cho Hồ Thanh Nhã cho biết là anh vừa viết bản nhạc Tìm mộ vừa khóc vì xúc động.  Chỉ có 30 phút là đã hoàn thành xong 1 bản nhạc hay.  Xin trích bài Tìm mộ -Trang 40-Thi phẩm Hương Thơ Đầu gió:

 

Anh nằm giữa đỉnh đồi hoang vắng

Mát rượi tàng cây dưới bóng sao

Con suối vòng cung qua mấy trại

Nhảy tung bọt sóng tháng mưa rào

 

Anh  đến Sơn La rồi ở lại

Bạn bè sau đó cũng về Nam

Chiều nay trở lại tìm anh đó

Chớp mắt qua rồi mấy chục năm

 

Cây sao cổ thụ giờ đâu mất

Còn chỉ  mênh mông sắn phủ đồi

Cách ngã ba nầy trăm rưởi thước

Mồ hoang viễn xứ lạnh mưa rơi

 

Năm xưa bẻ tạm ba que nhỏ

Làm nén hương lòng tiễn bạn đi

Gạo muối cũng không lòng thấy trống

Tủi thân manh chiếu rách đôi lề

 

Tôi dắt con anh trở lại đây

Mênh mông nghĩa tận khói hương dầy

Về Nam hương hỏa mồ yên tịnh

Chắc cũng còn hơn thổ trạch nầy

 

Vài tuần sau nhạc sĩ Hào Quốc lại phổ thêm nhạc phẩm thứ hai: Mùa Hạ -Trang 30-Thi phẩm Giọt Nắng Thiên Thu:

 

Hạ về Ca Li có hoa phượng tím

Tan sở anh về đường vắng mưa bay

Cánh hoa tím rụng trên cần quạt nước

Một vòng quay…tan biến giấc mơ dài

 

Hạ về quê hương có hoa phượng đỏ

Có tiếng ve sầu dỗ giấc ngủ trưa

Cô gái nhỏ chờ ai tan buổi học

Tay mân mê vành nón lá hững hờ

 

Hạ về quê hương có đầm sen trắng

Hương thơm lan từ nhụy đọng sương trong

Có một cánh diều lẻ loi trong gió

Chiều mênh mông theo làn khói đốt đồng

 

Gần Tết năm 2012 Hào Quốc lại phổ thêm bản nhạc thứ 3 dựa theo bài thơ Vú Sữa Lò Rèn – Trích trang 9-Thi phẩm Hương Thơ Đầu Gió:

 

Tiếng chim sáo hót trên cành trúc

Gọi gió Xuân về đón khách xa

Từ hướng sông Tiền nghe mát mặt

Gió từ Xoài Hột gió bay qua

 

Tay cô chủ trắng lông tơ mịn

Lụa Thái da mềm sữa nhú lên

Vú sữa Lò Rèn đây có phải

Bao tiền một ký vậy cô em ?

 

Đứng lên…bao trái sao mà nặng

Càng nặng tình quê buổi gặp nầy

Tuổi cũng tròn trăng vừa chin tới

Cũng mềm vú sữa…mát hơi tay

 

Tới năm 2014 nhạc sĩ Hào Quốc lại phổ thêm bản nhạc thứ 4 dựa theo bài thơ Bến Nước Cù Lao – Trích trang 14 – Thi phẩm Hương Thơ Đầu Gió:

 

Năm xưa một chuyến thăm cồn Ốc

Sóng nước Hàm Luông bát ngát bờ

Sông cái đôi giòng ôm đất mới

Mây trời man mác gió xa đưa

 

. . Con gái cù lao da rám nắng

Tóc thề xanh mộng gió xa bay theo

Một con xuồng nhỏ ven sông cái

Chèo mỏi đường xa tắt bóng chiều

 

. . Sau đó mấy lần ra Bến Lỡ

Chẳng hề gặp lại chiếc xuồng xưa

Con sông thì vẫn con sông ấy

Giòng nước hình như cũng hửng hờ

 

Bao giờ trở lại cù lao Ốc

Ăn ốc len om nước cốt dừa

Nghe gió đổi chiều con nước lớn

Cánh buồm no gió lướt trong mưa

 

Bốn bài thơ và bốn bản nhạc trên của hai người bạn văn nghệ ở 2 nước khác nhau là nhà thơ Hồ Thanh Nhã và nhạc sĩ Hào Quốc đã được nhà báo Phan Tấn Hải, chủ bút nhật báo Việt Báo –Nam California sưu tầm trên mạng Youtube và đang lưu giữ. Trong bài “ Trân trọng với cuộc đời ‘ đăng trên Việt Báo online  ngày Dec-24-2016 giới thiệu 2 tập Thơ: Giọt Nắng Thiên Thu và Hương Thơ Đầu Gió của Hồ Thanh Nhã , nhà báo Phan Tấn Hải có trích đăng bản nhạc Tìm mộ của Hào Quốc trên Youtube.

 

Hào Quốc và Hồ Thanh Nhã coi như hai người bạn tri âm vong niên từ năm 2010 đến nay là 7 năm rồi. Quen nhau trong tình văn nghệ, mến tài nhau nhưng họ vẫn chưa biết mặt nhau.  Cho đến sáng ngày Chúa nhật Jan-15-2017 nhạc sĩ Hào Quốc bay từ Canada qua California chơi, lúc đó họ mới gặp nhau lần đầu tại phòng khách Thiền viện Sùng Nghiêm, có sự tham dự của nhà báo Phan Tấn Hải-nhật báo Việt Báo.   Các ni sư Thiền viện Sùng Nghiêm –Nam California tổ chức tiệc trà mời nhạc sĩ Hào Quốc hát 4 bản nhạc của Hào quốc phổ nhạc từ 4 bài thơ của nhà thơ Hồ Thanh Nhã suốt 7 năm qua.  Hào Quốc vừa đàn vừa khóc vì cảm tình của mọi người dành cho nhạc sĩ sáng hôm ấy.  Quen nhau từ năm 2010, họ chỉ gặp nhau một lần duy nhất vào ngày hôm ấy . Thật cũng là một giai thoại văn nghệ đáng nhớ.

 

Phần 3: Lối vào của Tâm.

 

Nhà thơ Thiết giáp Hồ Thanh Nhã làm thơ từ hồi 16 tuổi.  Lớn lên đi lính cũng có viết nhiều bài Thơ trên các báo Quân Đội.  Sang Mỹ năm 1993 theo diện H. O. anh cộng tác trên các trang Thơ nhiều tuần báo ở Nam –Bắc California- USA và nhiều báo ở Toronto-Canada.  Anh đã xuất bản 2 Tập thơ:

1-Giọt Nắng Thiên Thu – In năm 2009 và tái bản tháng 12-2016.

2-Hương Thơ Đầu Gió –In tháng 12-2016.

Trong 2 tập thơ trên, anh có nhiều bài viết về Phật pháp đi vào nội tâm.  Xin xem bài Ẩn sĩ –Trích trang 15 – Thi phẩm Giọt Nắng Thiên Thu:

 

Đường về Đại Ẩn Sơn

Chập chùng mây xuống thấp

Vài con ong hút mật

Cành hoa dại sườn non

 

Đường khúc khuỷu ổ gà

Cơn xốc nào rêm nhức

Hòn đá rơi xuống vực

Tiếng vọng tít mù xa

 

Từ giã chốn phong ba

Khách giang hồ chôn kiếm

Tiếng chuông chùa Lộc Uyển

Lồng lộng bóng mây qua

 

Nhà sư già ngoại quốc

Gió phơ phất tăng bào

Ẩn sĩ quay về núi

Am nhỏ sườn núi cao

 

Tiếng chuông ngân trầm ấm

Nhắc một lời tỉnh tâm

Hơi thở dài sâu chậm

Quên thế sự thăng trầm

 

Hoặc tìm: Lối vào của Tâm -qua một bài Thơ lục bát khác – Trích bài Sơn Đạo-Trang 111-Thi phẩm Giọt Nắng Thiên Thu:

 

Đường lên đỉnh núi quanh quanh

Hạt sương sơn đạo nặng cành cỏ non

 

Hoặc đi sâu vào thâm sâu tâm thức:

Dù chưa gậy trúc gậy vàng

Cũng xem nhẹ gánh một phần biển dâu

Tìm trâu. . trâu lạc tìm đâu

Tìm đâu giữa lúc mái đầu điểm sương

 

Như một gả chăn trâu đi tìm trâu lạc, qua nhiều biến chuyển phức tạp của nội tâm:

 

Đá con lăn xuống vệ đường

Tiếng vang còn vọng qua sườn núi xa

Áo lam thoáng bóng sư già

Non phơi vóc hạc…Pháp Hoa chuông về

Hoặc:

Gốc  sồi ắt hẳn trăm năm

Con sâu đo mãi độ sần của da

Đo bao nhiêu lượt chiều tà

Làm sao đo hết tuổi già của cây

 

Một đoàn hành hương đi đến chùa Tam Bảo Sơn-một ngôi chùa hẻo lánh thuộc tỉnh bang Montreal-Canada.  Trích bài Thơ: Tam Bảo Sơn-Trang 26- Thi phẩm Hương Thơ Đầu Gió:

 

Ba tháng ẩn cư chờ tuyết rả

Lòng không

Nhẹ bổng áng mây ngàn

Hành giả thong dong đi giữa chợ

Lợi danh

Đầu cỏ hạt sương tan

Lão ni vản cảnh ven đường núi

Thong thả trần ai một gậy vàng

 

Lối vào của Tâm còn tìm thấy trong bài: Con Muỗi-Trang 42- Thi phẩm Hương Thơ Đầu Gió:

 

Trả ba giọt máu cho chồng cũ

Nàng hiện nguyên hình một tử thi

Xác rữa hóa thân thành kiếp muỗi

Vo ve đòi nợ lúc đêm về

 

Vô minh từ một duyên tiền kiếp

Nợ cứ vay hoài chẳng trả xong

Con muỗi ngàn năm còn kiếp muỗi

Đầy tâm sân hận đến đâu cùng

 

Xin trích bài “ Nắm tro “ – Trang 46 – Thi phẩm Hương Thơ Đầu Gió:

 

Tro bay theo gió lưng trời

Tro trôi trên sóng quên đời gió sương

Nắm tro từ cõi vô thường

Trời xanh mây trắng con đường sắc không

 

Cũng xin trích bài Quan Âm Áo Trắng –Trang -78 – Thi phẩm Hương Thơ Đầu Gió:

 

Áo trắng Quan Âm

Tấm lòng mẹ mỡ

Mỡ cửa trái tim

Con bước vào đời

Đường con còn dài tuổi đời mẹ ngắn

Như đóa phù dung sớm nở tối tàn

 

Trích “ Tướng Quân Quét Lá “ – Trang 118 – Thi phẩm Hương Thơ Đầu Gió ( Viết về cuộc đời về chiều của tướng Đồng văn Khuyên ):

 

Sáng đi trên lối cỏ

Bước thiền hành nhẹ tênh

Sương tan đầu ngọn gió

Nghe cuộc đời biến thiên

 

Hơi thở dài sâu chậm

Đi tận cùng phế nang

Thẳng lưng lòng trống rổng

Máu tuần hoàn khắp thân

 

Lỡ không tròn mộng lớn

 

 

Vẫy tay chào cố nhân

Thiền môn nghe vắng lặng

Nhẹ gánh đời tướng quân

 

Một thời khoát chinh y

Mộng vá trời lấp núi

Giang sơn giờ đã đổi

Khung trời mây bay đi

 

Quét làm sao cho hết

Tâm bao giờ thấy an

Thân chưa vào thanh tịnh

Thao thức chiều gió sang

 

Tướng quân thường quét lá

Chiều xuống lại chiều lên

Tăng bào theo bóng gió

Phơ phất trời lãng quên

 

Một lần nữa, xin giới thiệu quí vị độc  giả 2 Thi phẩm của nhà thơ Hồ Thanh Nhã là:

1-Giọt Nắng Thiên Thu –tái bản lần thứ 2.

2- Hương Thơ Đầu Gió – in tháng 12 năm 2016.
 

Muốn mua sách xin liên lạc với tác giả ở địa chỉ sau đây:

         Hồ Thanh Nhã

9791 Ashford Ave

Westminster, CA 92683 –USA.

Email: - nhaho2009@yahoo. com

        Hồ Thanh Nhã

  

      

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.