và nỗi buồn của kiếm sĩ Đăng Dung
Tôi có dịp gặp mặt Tướng Đồng Văn Khuyên 2 lần khi ông đến làm lễ bế giảng lần đầu là khóa Sĩ Quan Tiếp liệu binh đoàn năm 1971 và lần sau là khóa Sĩ Quan Tiếp vận trung cấp tại Trường Tiếp vận năm 1973 khi tôi về học tại đây. Người trung bình, trắng trẻo, mặt vuông cương nghị, tiếng nói sang sảng khi ông dặn dò các Sĩ quan khóa sinh mãn khóa. Thật đáng mặt là một Tướng tham mưu giỏi nên mới giữ được lâu cương vị là Tổng cục Tiếp vận, cánh tay phải của Đại tướng Cao văn Viên Tổng Tham mưu trưỡng Quân Lực Việt Nam cộng Hòa. Với cương vị nầy ông phụ trách tổng quát tài sản của toàn Quân lực Việt nam Cộng Hòa khi có trách nhiệm chỉ huy và điều hành nhiều cục khác nhau, phụ trách nhiều lãnh vực khác nhau như các cục Quân cụ, công binh, Mãi dịch, Quân nhu. . . .
Tình hình chiến sự của Việt nam trong tháng 4 năm 1975 càng ngày càng thêm bi đát. Miền Trung thì từng tỉnh mất dần, Xuân Lộc bỏ ngõ vì ở kháng tuyến cuối cùng nầy Sư đoàn 18 bộ binh đã rút. Tướng Khuyên còn ở lai Sài Gòn cho đến ngày 28 tháng 4 năm 1975 mới bỏ nước ra đi. Ra đi với tâm trạng của môt kiếm sĩ thất thời đành sống kiếp lưu vong. Ông đã ra đi trong khi Sài Gòn đang cơn hấp hối vô phương cứu vãn nổi.
Tới Mỹ, cũng như bao nhiêu kẻ sĩ khác bỏ nước ra đi, gia đình ông Khuyên sống âm thầm, thu nhỏ trong góc hẹp, giới hạn tiếp xúc với đồng hương. Ông xuất gia và tu hành lặng lẽ trong một ngôi chùa cũng lặng lẽ ít đồng hương lễ lạc. Kiếm sĩ Đặng Dung ngày xưa cũng sống như vậy. Một chiếc bóng cô đơn thiền hành trong đường chiều trong bóng xế cuộc đời. Biết nói với ai, biết chia xẻ với ai Trong vô cùng thiên địa nầy :
Quốc thù dị báo đầu tiên bạch
Kỳ độ long tuyền đới nguyệt ma
Đặng Dung.
Rồi có ngày kia, một nhà sư già từ hàng chục năm qua, sống âm thầm như môt chiếc bóng và cho đến khi về với đất cũng lặng lẽ, quạnh hiu chỉ có vài người thân đưa tiễn. Ta hãy lắng lòng mà đọc bài thơ dưới đây :
Tướng quân quét lá
Sáng đi trên lối cỏ
Bước thiền hành nhẹ tênh
Sương tan đầu ngọn gió
Nghe cuộc đời biến thiên
Hơi thở dài sâu chậm
Đi tận cùng phế nang
Thẳng lưng lòng trống rổng
Máu tuần hoàn khắp thân
Lỡ không tròn mộng lớn
Vẫy tay chào cố nhân
Thiền môn nghe vắng lặng
Nhẹ gánh đời tướng quân
Tăng bào bay gió lộng
Đón tiết trời Thu sang
Sân sau vàng sắc lá
Dáng Thu đi muộn màng
Chiều sang im tiếng gió
Chổi lướt đường sỏi con
Nhà sư già quét lá
Quét nỗi buồn nước non
Một thời khoát chinh y
Mộng vá trời lấp núi
Giang sơn giờ đã đổi
Khung trời mây bay đi
Lá rơi trên bờ cỏ
Lá bay triền suối con
Quét vừa xong lớp trước
Đợt khác lối đi mòn
Quét làm sao cho hết
Tâm bao giờ thấy an
Thân chưa vào thanh tịnh
Thao thức chiều gió sang
Tướng quân giờ thí phát
Đầu trọc áo nâu sòng
Việc đời trôi chốc lát
Thôi. . nép mình cửa không
Tướng quân thường quét lá
Chiều xuống lại chiều lên
Tăng bào theo bóng gió
Phơ phất trời lãng quên
Gặp vài ba người quen
Hỏi han đôi chuyện cũ
Quảng đời xưa đâu đó
Chớp mắt trời gió im
Hôm qua và hôm nay
Từng mùa Thu qua vội
Nhà sư già ngưng chổi
Ngắm gió đùa bóng mây…
Hồ Thanh Nhã