Hôm nay,  

Tướng Đồng Văn Khuyên và nỗi buồn của kiếm sĩ Đăng Dung

26/04/201914:42:00(Xem: 9321)
Tướng Đồng Văn Khuyên
và nỗi buồn của kiếm sĩ Đăng Dung
 
Hồ Thanh Nhã

  

Tôi có dịp gặp mặt Tướng Đồng Văn Khuyên 2 lần khi ông đến làm lễ bế giảng lần đầu là khóa Sĩ Quan Tiếp liệu binh đoàn năm 1971 và lần sau là khóa Sĩ Quan Tiếp vận trung cấp tại Trường Tiếp vận năm 1973 khi tôi về học tại đây.  Người trung bình, trắng trẻo, mặt vuông cương nghị, tiếng nói sang sảng khi ông dặn dò các Sĩ quan khóa sinh mãn khóa.  Thật đáng mặt là một Tướng tham mưu giỏi nên mới giữ được lâu cương vị là Tổng cục Tiếp vận, cánh tay phải của Đại tướng Cao văn Viên Tổng Tham mưu trưỡng Quân Lực Việt Nam cộng Hòa.  Với cương vị nầy ông phụ trách tổng quát tài sản của toàn Quân lực Việt nam Cộng Hòa khi có trách nhiệm chỉ huy và điều hành nhiều cục khác nhau, phụ trách nhiều lãnh vực khác nhau như các cục Quân cụ, công binh, Mãi dịch, Quân nhu. . . .
 
Tình hình chiến sự của Việt nam trong tháng 4 năm 1975 càng ngày càng thêm bi đát.  Miền Trung thì từng tỉnh mất dần, Xuân Lộc bỏ ngõ vì ở kháng tuyến cuối cùng nầy Sư đoàn 18 bộ binh đã rút.  Tướng Khuyên còn ở lai Sài Gòn cho đến ngày 28 tháng 4 năm 1975 mới bỏ nước ra đi.  Ra đi với tâm trạng của  môt kiếm sĩ thất thời đành sống kiếp lưu vong. Ông đã ra đi trong khi Sài Gòn đang cơn hấp hối vô phương cứu vãn nổi.
 

Tới Mỹ, cũng như bao nhiêu kẻ sĩ khác bỏ nước ra đi, gia đình ông Khuyên sống âm thầm, thu nhỏ trong góc hẹp, giới hạn tiếp xúc với đồng hương.  Ông xuất gia và tu hành lặng lẽ trong một ngôi chùa cũng lặng lẽ ít đồng hương lễ lạc.  Kiếm sĩ Đặng Dung ngày xưa cũng sống như vậy.  Một chiếc bóng cô đơn thiền hành trong đường chiều trong bóng xế cuộc đời.  Biết nói với ai, biết chia xẻ với ai Trong vô cùng thiên địa nầy :

 

Quốc thù dị báo đầu tiên bạch

Kỳ độ long tuyền đới nguyệt ma

                Đặng Dung.

 

Rồi có ngày kia, một nhà sư già từ hàng chục năm qua, sống âm thầm như môt chiếc bóng và cho đến khi về với đất cũng lặng lẽ, quạnh hiu  chỉ có vài người thân đưa tiễn.  Ta hãy lắng lòng mà đọc bài thơ dưới đây :

 

 

 Tướng quân quét lá

 

Sáng đi trên lối cỏ

Bước thiền hành nhẹ tênh

Sương tan đầu ngọn gió

Nghe cuộc đời biến thiên

 

Hơi thở dài sâu chậm

Đi tận cùng phế nang

Thẳng lưng lòng trống rổng

Máu tuần hoàn khắp thân

 

Lỡ không tròn mộng lớn

Vẫy tay chào cố nhân

Thiền môn nghe vắng lặng

Nhẹ gánh đời tướng quân

 

Tăng bào bay gió lộng

Đón tiết trời Thu sang

Sân sau vàng sắc lá

Dáng Thu đi muộn màng

 

Chiều sang im tiếng gió

Chổi lướt đường sỏi con

Nhà sư già quét lá

Quét nỗi buồn nước non

  

Một thời khoát chinh y

Mộng vá trời lấp núi

Giang sơn giờ đã đổi

Khung trời mây bay đi

 

Lá rơi trên bờ cỏ

Lá bay triền suối con

Quét vừa xong lớp trước

Đợt khác lối đi mòn

 

Quét làm sao cho hết

Tâm bao giờ thấy an

Thân chưa vào thanh tịnh

Thao thức chiều gió sang

 

Tướng quân giờ thí phát

Đầu trọc áo nâu sòng

Việc đời trôi chốc lát

Thôi. . nép mình cửa không

 

Tướng quân thường quét lá

Chiều xuống lại chiều lên

Tăng bào theo bóng gió

Phơ phất trời lãng quên

 

Gặp vài ba người quen

Hỏi han đôi chuyện cũ

Quảng đời xưa đâu đó

Chớp mắt trời gió im

 

Hôm qua và hôm nay

Từng mùa Thu qua vội

Nhà sư già ngưng chổi

Ngắm gió đùa bóng mây…

 

          Hồ Thanh Nhã


 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đại đội 17 - khóa 25 SVSQ trừ bị Thủ Đức của chúng tôi vào tháng 11/1967, là nhân chứng tận mắt ngày xây Nghĩa trang quân đội Biên Hòa và 8 năm sau, tức ngày 30/4/1975 số người sống sót sau cuộc chiến của toán dàn chào nầy, cùng toàn dân miền Nam chứng kiến sự kết thúc của Nghĩa trang đó.
Kính trọng và ưu ái thắp ngọn bạch lạp buổi tối cho ngày 30 tháng tư năm 1975 để tưởng nhớ, để cảm ơn những anh hùng tử sĩ hy sinh cho cuộc chiến Quốc Cộng sau vĩ tuyến 17 và cho nửa triệu thuyền nhân Việt chết trên biển tìm tự do.
Đêm nay ở phương trời xa xăm cũ biết trời có mưa không? Đêm nay trong vòng rào tù ngục có bao nhiêu kẻ (chợt) thức giấc giữa đêm trường nằm mong chờ khắc khoải trong đói lạnh một tiếng súng mơ hồ? Và đêm qua – ở nơi đây – ai có bạc đầu không?
Nhân Ngày ANZAC Day 25/4/2019 Do Ca Nhạc Sĩ Bích Ngọc & Thái Nguyên - Hội Duy Trì & Phát Triển Văn Hóa / Culture Preservation & Development Club - “Cp&Dc” Tổ Chức
Ông Đào Tăng Đĩnh, sinh năm 1923, vào thời kỳ Việt Nam bị Pháp đô hộ. Ông lớn lên trong thời kỳ các đảng phái và phe nhóm quốc gia lẫn cộng sản đứng lên khởi nghĩa chống Pháp
Tôi chỉ kinh ngạc khi nghĩ tới má chạy vào vùng bom đạn để cứu đứa con gái mới hai tháng. Đây là câu chuyện đầu tiên về đời mình tôi được biết – câu chuyện của một đứa bé kẹt ở khúc quanh lịch sử; câu chuyện về tình thương vô điều kiện của người mẹ dành cho đứa con; và câu chuyện trong giờ phút đất nước đổi chủ
Ngày 30 tháng 4 là xương máu của cả 10 triệu nhơn dân Việt Nam đã đổ trong suốt 30 năm dài. Trong thành quả đó, tưởng cũng đừng quên thành tích đóng góp không nhỏ của một bộ phận nhơn dân có đời sống ưu đãi và nhứt là họ không phải phơi mình trên lửa đạn.
Năm đầu tiên vào Sài gòn, tôi được anh chở trên chiếc vespa cà tàng đi khắp nơi. Anh đã giúp tôi chuẩn bị tốt cho kỳ thi vào Cao đẳng Mỹ Thuật Sài gòn dù về sau tôi không theo đuổi nghệ thuật hội họa... Kỷ niệm với anh Du Tử Lê tôi không bao giờ quên và chúng tôi thường nhắc lại mỗi khi ngồi uống café rồi cười với nhau
Đến Ai Cập và Jordan, chúng tôi tự sắp xếp chương trình thăm những nơi mình muốn. Qua Do Thái mấy ngày đầu tự lên lịch tham quan, sau đó nhập vào đoàn người đến từ Mỹ và Úc, trong chuyến hành hương do linh mục Dòng Tên Nguyễn Tầm Thường hướng dẫn.
Truyện Thạch Sanh Lý Thông lưu truyền trong dân gian dưới hình thức chuyện kể truyền miệng chắc có đã lâu. Phải hiện hữu trước khi ông Dương Minh Đức đưa bản văn sáng tác của mình sang bên Quảng Đông khắc ván cũng như từng đưa vài chục tác phẩm khác của nhóm nhờ đó miền Nam Kỳ Lục tỉnh có được một số tác phẩm Nôm đáng kể mà người nghiên cứu Nôm thường gọi là Nôm Phật Trấn
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.