Hôm nay,  

Phố Đỏ

02/05/201918:02:00(Xem: 4936)
Phố Đỏ
 
Phan Tấn Uẩn

 

 Thành phố cứng đờ khô chết sau cơn chém giết bão bùng khiếp đảm hai ngày trước. Ông Chí lúi cúi nhận mặt thằng Lớn trong dãy xác người ê ẩm nằm sãi dượi giữa đường, hiên. Những xác chết mềm nhũn như những sợi bún nằm hớ hênh, bắt ngang bắt dọc trước mặt phố, chao nghiêng dưới trụ đàn gốc cây. Ông Chí mếu máo, khóc rấm rức, nước mắt không còn trào nổi. trước mặt ông, những cụm tóc tơi tả như chòm râu bắp phủ xòa lơ thơ trên đài trán bạn thếch xanh xao. Những đôi mắt trợn trừng nuối tiếc chưa muốn vĩnh quyết dứt lìa. Ông Chí khẻ trờ tới khom xuống rà mắt thật kỷ trên từng vết tật ở cánh tay của tảng thịt chết. Con phố lạnh buốt điêu tàn. Những u uất phơi trãi chung quanh, rải rác đôi ba người mang hoàn cảnh ông Chí, đang nghẹn khóc đầu góc phố, sục sạo tìm kiếm tăm tích con cháu. Buổi sáng im lìm mun sẩm trì nặng trong hơi thở. Ông Chí sửng sờ đứng sựng lại khi nghe một tràng tớt tức tửi đứt cụt giữa trời không. Tiếng tớt ngắn cụt xao loãng  của một ông già đầu đường chừng như  còn thê lương chín khúc hơn cả vùng tâm tư nát hoảnh cồn cào trong ruột ông. Nghĩ thế, ông Chí tỉnh hơi ngước dòm phía người già. Thêm một khối thịt nằm đông cứng, gãy chân, vỡ sọ, dựa vắt trên tảng đá lớn bên đường. Người già đó vẫn còn quệt nước mắt, những vệt ghèn nhòe nhoẹt dán chặt trên đĩnh má cao. Ông Chí tới gần, ngó xuống chân người già, một thân thịt khác bị bắn tóe nát ở một bắp đùi, dấu bắn mới hoảnh tướt ra từ bả vế một nắm thịt màu nâu nhạt tĩa lia ria như miếng thịt bò gân. Cả bắp vế đó không khác chi cái đùi bò. Xáp mặt người già, ông Chí chỉ tay xuống tảng thịt :

  -  Bác khóc cái xác ni?
 

Người già bập bẹ trong tiếng khóc, dụi tay lên một con mắt bét ghèn :

  - Ôn rõ mắt coi dùm tui thử ở cánh tay nó có châm chữ kỷ niệm chiến thắng Đồng Xoài không?

    Ông Chí cúi xuống lật qua về hai cánh tay một hồi rồi lắc đầu. Trên đó chỉ xâm lên một cái  hình rằn rằn rện rện, không có chữ kỷ niệm đồng xoài đồng xiết nào hết. Hai ông già ứa lệ nhìn nhau nghẹn cứng lời. Khu phố nhìn quanh tản lặng ớn gáy. Mấy người đàn ông nóng ruột nóng gan đi lục sạo thân nhân trong rừng xác ngổn ngang bên kia đường, đều biến mất vào các ngã phố. Lệnh cấm trăm phần trăm đối với dân chúng vẫn úp xuống lạnh lùng. Hai ông già khốn khổ còn ngo ngoe trong cơn ác một tày trời.

    - Tui cũng mất tăm một thằng con.                            

Người già xếp chiếc khăn tay vào túi áo :                                           

    -  Từ thuở mẹ đẽ tới chừ tui mới thấy...                                    

    - Tui đoán còn chết tởn nữa bác nạ...

    Súng lại nổ lắc rắc. Những hòn đạn bay xéo ngang đầu ghê dữ. Ông Chí lặng thần nghe ngóng, thế ni thì chuyện hiểm ác còn găng lắm chớ không phải chơi. Kể từ khuya qua từ dưới gậm phãn, ông Chí sung sướng nhận ra tiếng súng đã ngưng bặt. Nghiệt một thằng Lớn ở luôn trên đồn cảnh sát hai ngày đỏ lửa khiến vợ chồng ông Chí chết ruột chết gan y như chuyện con ông đã chết thiệt rồi. Ông Chí nhìn qua khe cửa, trời còn mù mù đen hoắm, mấy nhánh ổi xá lị gãy oắp xuống lỏng thõng đu đưa qua về quá tàn tệ. Ông Chí chẳng ngờ những viên đạn dữ đã mò đến vùng ông, chừng muốn chém đứt lìa cả khu vườn khoảng sân quanh đó. Ông lẩm bẩm, thế ni thì hai bữa trước đứa mô vô phúc ló đầu ra, chắc "nó" cũng thiến tiệt rồi, có mô mà ác tăng ác đế dữ ri trời... Khi ngó lũ con bầy cháu không hao hớt đứa nào, ông Chí vui thầm. Ông càng vui hơn khi thấy bọn nhỏ chẳng đứa nào sứt trán sướt da gì ráo. Vẫn còn thiếu thằng Lớn. Hắn đụng ngay phiên trực trên bót hôm đầu tiên nổ súng, kẹt luôn khiến ông Chí bồn chồn xót ruột, nổi ám ảnh bị mất thằng Lớn cứ quanh quẩn sát phạt ông suốt ngày nầy ngày khác. Ông ngồi yên một xó canh chừng trời sáng. Súng đạn nó thường tháu cáy, thâm thù với tình thương lắm như tình cha con ông Chí. Bầu trời rõ ửng trên mấy cành lá nhỏ, ông Chí chun tuốt khỏi gậm phản ra ngõ dòm loanh quanh. Đứng đó ông càng nóng ruột gắt. Những âu lo thương xót tự đâu đùn lên cao ngất trong lòng ông và đắp quanh hình bóng thằng Lớn. Tuổi già ông cũng thường yên nghỉ dưới vùng kỷ niệm bát ngát kinh qua trên dòng sống, nhưng thằng Lớn thực sự vẫn chưa in hằn được dấu tích nào trong vùng kỷ niệm sâu dày đó của ông. Bây giờ bóng dáng hắn bỗng dưng khêu lên từng mẩu đời bé mọn vô tích, dựng cao lên trong ký ức ông  Chí những kỷ niệm tưởng như từ người chết bỏ lại (một người trước khi nhắm mắt gục xuống, hốt nhiên trong phút chốc, nhớ lại hết thảy quãng đời y đã đạp qua). Ông Chí tần ngần muốn chạy băng lên ngã đồn dò hỏi tăm tích thằng Lớn. Lỗ đạn bung tóe trên một thân cây. Miếng hũng đục sâu trên thành tường. Nhìn bằng ấy thứ, ông Chí đủ chùn bước bỏ đứt ý định. Ông lộn trở vô nhà càng nghe quay quắt mạnh trong ruột gan. Mạ mi, nói dại tau sợ thằng Lớn chết quá. Mụ Chí làu bàu, ba mi rán dò thử. Dò...mạ mi ra ngoài mà dò. Mấy bửa ni rúc đầu dưới phản, mạ mi biết người ta làm chi ở mấy chục tỉnh không? Nói xong, ông Chí ra dạng chân chống nạnh giữa bậc thềm buồn khướt, nom lên phía bót. Tiếng nổ còn thay nhau điểm thưa thớt,âm vọng qua mấy trời xám bệnh. Loáng thoáng sau những khoảng trống trông qua hàng cây, đường xe lửa, ông Chí tưởng như bãi chiến đã dàn sẳn trên các hình lộ tử thần. Bất ngờ ông mạnh chân trở lui ra ngõ. Chừng một cây số từ nhà ông tới phố, ông Chí rán quên trăm ngàn quan san cách trở, đạp lên hiểm độc chạy tìm thằng Lớn. Những hàng rào kẽm gai chăng đầy khít rịt trước mặt. Từng cơn dọa dẩm cú vọ tạt vào mặt ông. Ông Chí lò dò men nhẹ theo mép cỏ gai con đường sỏi bạc, ngước dòm qua một khoảng rộng đặc ngùn ám khí. Tâm thần ông Chí không khác chi một con cá lảy đãy trên thớt gỗ. Súng ống lính tráng nhìn qua khoảng trống, trốn miết xó nào không thấy. Ông Chí, trong thoáng chốc, bỗng giẩy nẫy, khám phá dưới dãy hào lũy ngụy trang, những ổ súng, lỗ châu mai,những mủ sắt thùng đạn đầy nghịt hờm hờm. Người ta cấm chân ông đấy, nhưng ông vẫn sấn tới. Một người lão điên cuồng, chắp tay vừa đi vừa lạy lục cúc bái trời đất cách chỗ ông không xa. Ông Chí tỉnh hồn chợt hiểu, ngoài ông, còn có nhiều tay liều mạng quá cở. Cả chục người từ phía ông Chí ùa lên phố, lom khom è ạch đi trong nước mắt cạn khô. Họ sẽ moi tìm người ruột thịt bạc phúc vô phần? Họ kiên tâm lộn lui sống chết trong căn nhà con cháu đầy đàn? Trên hai bờ con đường sỏi bạc, vài ba xác thịt nằm duỗi chết ngay đơ vô tình như mấy cọng rác rơi rớt sau lưng. Ông Chí ra tới phố, dấu vết trận chiến nằm xơ rơ rách nát thảm thương. Như thằng Lớn có nằm queo thân tủi hổ trong bãi xác nghi ngút đó, ông Chí còn phải mệt công phanh mò mới nhận nổi mặt hắn. Mặt mũi thằng Lớn đôn hậu trung trung, cá biệt chan hòa trên ba dòng sông lớn chảy hiền hòa ươm dày mạch sống tổ tông. Ông Chí chưa tin thằng Lớn rục xương mất biệt, nhưng ông đã khóc. Quê hương đen mùa xuân đỏ bây giờ, chao ôi là buồn! Sao ông khóc, ông Chí? Xương máu đó đâu phải của con ông, sao ông khóc? Ông Chí. Ông Chí.Mồ mả đầy cao trên đầu nghỉa địa cho con cháu mai sau đắp cỏ khóc than. Ông Chí ngộp hơi choáng váng. Thằng Lớn nhà ông nhăn nhó qua cầu hồn phách tiêu tán lạc đạn trôi song, hay hắn nằm xuống nhẹ nhàng như bài ca dao mẹ ru ngủ xóm đồng, ông Chí cũng yên long bớt khóc khi ông đã xoắn chặt thâm tình vào bãi xác chỉ có một thân nhân mang tên tổ quốc ông…Ông dại đờ mù chóa theo những vầng đom đóm mắt vàng lè vung tỏa như ngọn pháo bông. Người già vẫn dòm miết lên con xác bất động. Ông Chí cúi nhìn kỷ cái xác, đứa mô bắn chó quá, đạn ghim nát như tổ ong từ rún lên tới đầu, hết đường nhận mặt.

    Ông Chí ngóc đầu lên :                                                         

   - Bác nói đứa mô châm chữ trên tay?                                   

   - Con tui…                                                                                     

   - Hắn châm…  

   - U chao, được thằng con đấu đái hậu lai, hắn như thẫu mắm treo đầu giàn. Tui sẳn sang chết cho hắn sống, nhưng căn sự như ri, ôn nghĩ có chó không? Cả nhóm rằn ri của hắn chết trụi lụi lụi trong đợt xua quân làm cỏ Việt cọng việt kiết chi đó. Hắn xớt chết ba lần, lảnh cả chùm huy chương rực rực trên áo. Tui vẫn nói tui vẫn rất xa lạ với mấy thứ nớ. Nhưng mình sinh con chứ ai sinh tâm sinh tính hắn. Khổ quá ôn nạ. Đánh thắng mô một trận ở miệt trong, hắn châm luôn chữ trên tay làm kỷ niệm. Tui hỏi ôn chừ hắn nằm chết queo râu như mấy cái xác ni, ai châm kỷ niệm cho hắn đây ôn. Hay chỉ mình tôi ngồi bóp bóp cái bọc nước mắt xép lẹp của tuổi già rỉ rả từng giọt ra khóc hắn… 

    Ông Chí can chỉ :                                                                               

 - Bác nói quá chớ thật ra ai muốn chi rứa.                            

 – Tui tức… Thương hắn quá mà tui tức. Con nói không biết nghe.

 -Trăm sự cũng tại tai biến mà ra cả.                                            

 – Tai biến chi. Ít lắm mười phần sống cũng còn  trong tay ba bảy phần, ai đời chỗ hắn mất trụi hết.                                

– Bác coi tui có thua chi bác mô.                                                  

 – Ôn chắc thằng nhỏ nhà ông chết không?                                   

 - Chắc bác nạ.                                                                                

– Ai nói? Ôn có thói nghi vặt rồi…

Ông Chí hắt hơi sặc sụa, cơn ho cào ngứa trong cổ khô. Đường phố ngủ dọc dài mê vùi thảm não.Ánh nắng le lói chạy suốt trên mấy hang hiên. Người già uể mệt dòm lại con thịt chết dưới chân. Mặt mũi hắn giống con ông. Tấm áo trận kho queo xách ngược qua sườn bụng phát lộ hơ hớ mảng da trắng méc, từng vết máu vấy tỏa se sắt trộn nhòa trong màu áo xanh nâu. Con ông chết rồi cũng thế.Ông Chí bỗng nhiên nhập nhòa trong một vùng cay đắng mênh mông, thằng Lớn chỉ khiêm nhường nằm gọn ở một vuông nhỏ xót xa tan loãng trong đó. Ông sực nghĩ câu chuyện gia đình ông không lớn hơn dòng máu đỏ chảy trên song, niềm lo âu cho thằng Lớn nhỏ nhoi như vết trầy xây xớt trên mặt da. Mùi thịt thối nặng nghịt hơi thở bắt đầu bay lan từ những con xác sình mũn lạnh ngắt rơi xuống trong những giờ đầu nổi lửa. Một loạt đạn bắn xéo ở góc ngã tư bãi chiến khu phố, chừng như chĩa mũi vào hông một ngôi lầu đúc kiên cố được ước tính như một ổ địch cứng đầu cố thủ. Ông Chí vội tay kéo người già nép sạp xuống, bò tấp sát vào chân một cửa phố. Những tràng đạn dòn khô tiếp lần cuồng thét hối giục hai ông lão quấn sát mình nhau. Người già thở hổn hễn bên tai ông Chí, vòng tay run run thắt cứng lưng ông. Ông Chí nghĩ dại,như hai đứa tau có vô tình nằm rục luôn xuống đây, mụ Chí thế chưn tau chạy tìm thằng Lớn, tìm tau, tìm rang cũng không gặp, rồi lại một đợt lửa đốt lên, mụ Chí nằm trốn đạn xuống một nơi mô đó lại cũng bị đạn xéo chết ngon ơ, chồng lên bãi thịt người vốn đã cao, lại cao hơn, lòng đất đỏ máu càng đỏ hơn, ngọn gió đã tanh rích thịt người sẽ còn thúi hơn. Nhưng cũng chưa hết, lũ con bầy cháu tau lại tiếp chưn ôn nội mệ nội cha mạ chúng hắn đi tìm xác, rồi cũng... Rắc-rắc-rắc, phụp-phụp, ông Chí ngước  dòm lên tường hai hòn đạn gâm cứng phá tung một miếng vách, những vụn vôi nạm đá rớt rào rào lên hè phố, ngay gần đầu họ. Ông Chí bình tỉnh hỏi người già :

  -  Bác sợ chết không?

  Người già run lẩy bẫy không định hồn nghĩ tới lời ông Chí. Dáng co quắp gầy mòn nhăn rúm làm ông Chí bồi hồi xúc cảm. Không biết bác ni ở mô, nhưng con bác, qua  nhiều điều bác kể, cũng có thể biết hắn làm việc chi rồi. Hắn con một. Chưa vợ. Bác buồn. Tội nghiệp quá...

    Một hồi lâu im phắc sau loạt đạn dữ, ông Chí lồm cồm ngồi khom lưng đỡ người già. Họ đứng dậy dìu nhau đi giữa bãi thịt rợn hồn...

Ba cổ xe mượn của lính, hồng thập tự, y tế, đi vào thành phố. Chừng ba mươi người trẻ ngoi đầu nhú bên phía hông dò dò xuống đường. Mỗi cái xe loe ngoe một tấm cờ trên mui. Tấm cờ lừng đừng vô can giữa hai phía. Tấm cờ che bọc ba mươi tấm lòng ngộp đầy thương yêu tự nguyện dọn sạch những con xác. Đoàn xe, từng chiếc, rải rác, đậu ở ngã tư đường, hè phố, trước rạp hát. Một người con gái, nương theo tia nhìn ngạc nhiên của ông Chí, nhỏ nhẻ như khuyên can :

    - Đó, bác thấy chưa. Cháu đâu có láo.

Người con trai đứng gần đó lôi một chai dầu trong túi áo:

    -Bọn cháu đã nói bác đừng đi theo.

Ánh nắng hực hơi lửa hầm hầm thiêu  đốt trên da, mùa xuân không còn gương mặt êm dịu chan hòa trên ngọn lá non cồn cỏ, những nụ tầm đâm đầy sức sống. Ông Chí thẩn thờ đâm buồn sướt mướt. Những con xác biến dạng một cách quái đản qua mấy ngày nằm lãng quên như đất cỏ. Những chiếc bụng cương sình căng to không khác chi chiếc trống đình hay bụng ễnh ương. Nắng thui lên da một lớp nâu sẫm bầm tím, những con xác lăn lóc như con bò quay trên chồng than đỏ. Từng rãnh da nứt nở ngoằn ngoèo, những luồng nước vàng nước đỏ men theo đó chảy ra loàm loệm quá gớm tởm. Ngang cở nầy phải nhặt xác chôn gấp. Bệnh truyền nhiểm dịch hạch bắt đầu giơ cao nanh vuốt đe dọa. Ông Chí kinh hồn không ngờ sự việc đã biến lật quá lẹ. Mấy ngày trước ông viếng qua đây dò mặt thằng Lớn, những con thịt nầy còn cho ông hiểu đó là xác xương đồng loại ông. Bây giờ ông chưa biết gọi cái bãi xác đó bằng một tên gì. Thằng Lớn hay cậu trai con người già, dầu có ngủ trong đó cũng chẳng ai nhận ra. Không phân biệt nổi cả đàn ông đàn bà, con trai con gái, lính tráng Việt cọng, dân chúng trong đống thịt ngổn ngang đồ sộ. Đặc biệt, ông Chí chợt thấy những sợi quai dép Bình-Trị-Thiên, những bộ đồ đen lẻ tẽ bó chặt lên một số con xác, mấy người thanh niên nói, họ là li1nhcha1nh quy Bắc Việt vô đó, ai biết đứa nào đặc công không? Ông Chí đảo mắt nhìn khắp vẫn không tìm gặp dấu vết đặc công đặc kiết gì hết. Một người thanh niên nhắc lại ông Chí :

- Thôi bác về không mang bệnh.                                             

- Mấy anh lo việc mấy anh. Kệ tui.

    Ông Chí thụt lui ngữa lưng trên vuông cửa chiếc GMC. Đám người trẻ chặt khúc từng toán nhỏ đi nhặt xác. Tấm masque bọc kín miệng, chai dầu thơm bật nùi bôi đầy lên mũi, mỗi người vẫn còn bắt ngửi quanh quất đây đó một mùi thối khiếp vía mửa mật bay ra từ những con xác vĩ đại. Khởi đầu hai người khiêng một xác, nặng quá không nổi, họ gọi nhau ơi ới chụm thành bốn người lo một cái. Chiếc brancard đặt giữa đất. Khối thịt trì xuống không muốn suy xuyển trên tay bốn người con trai đầy sức. Ông Chí e ngại cái bọc nước ọc ạch trong bụng con ễnh ương vỡ xì ra, những vòi nước độc ghê hồn từ đó bắn vòng cầu tung cong khắp mặt mũi, ria xéo xuống đường lờm lờm trong cổ. Ông rảo nhẹ tới gần toán người, họ đang hì hục bưng nhẹ một con xác. Nửa chừng, họ bỏ xuống chạy tung tóe bốn góc như bầy ong vỡ tổ. Lớp thịt trên con xác đã rữa nát bầy nhầy. Chiếc gant bọc dày kín lên khắp bàn tay, ông Chí vẫn nhìn ra nơi đó những vụn thịt bấy mũn màu đỏ xám lều phều chun qua các kẽ hở trên các ngón nhỏ, không khác chi cầm một nắm đất sét nhão nhoẹt bóp chặt lại. Một mùi thối nặc nồng kinh dị hít vào muốn mửa máu mửa mật tung phả chung quanh. Toán người loăn quăn chạy nhặt những tấm giấy lót tay. Họ lại bôi thêm dầu thơm trên mũi, trở lui chụm đầu vào nâng đống thịt bỏ lên brancard. Ông Chí ngán ngẩm, chết chi mà tội rứa trời. Buổi sáng ông nhất quyết nhập đoàn lượm xác, đi cho biết thằng Lớn thế nào, rồi còn dò hỏi được tăm tích gì về cái đám con cháu thân thích láng giềng không. Tới đây, nhìn sự thể biến hình lạ loắc, ông Chí chắc nhắn không cam tâm trở lui. Ông muốn đi riết đến hồi nào con đường trước mặt không còn thấy máu me vung vít, những con bò thui sình thối phải nằm trên một góc đất dã man nào đó của loài thú rừng. Phe ni thuyết tê, hừ, tổ cha cố tổ mi. Không biết mi là ai, nhưng ông Chí vọt miệng chửi đỗng, chửi cho nát nước bè "nó" ra... Nắng chóa chém nghiêng chém dọc ngang mình rát bỏng, ông Chí lôi khăn quẹt mồ hôi. Toán người lạnh ạnh nhấc chiếc cáng ểnh ương tới phía cái xe lính. Tấm cửa sau đã mở hoát, một khoảng rộng đủ lớn để vần chiếc cáng vào xe. Ông Chí vọt lẹ tới gộp tay bưng giúp toán người. Chiếc cáng thả xuống ngay cửa xe, toán người lại chạy tóe dời ra xa, thở, bôi dầu. Ông Chí lạch bạch bước sau một người con trai, gượng cưới hì hì. Ông đứng lại thở, chỉ tay quanh bãi xác :

 - Ai biết người mô có mang gần đẻ giữa nớ không?                         

 - Chịu, bác.

    Người con trai vừa cười vừa thở hào hển, hai tay gác chéo sau lưng. Toán người xúm lui phía cáng, gọi thêm bốn người khác nâng nổi thân thịt ngang ngực, đưa vô lòng xe. Bất thần, ông Chí nghẹt hơi xây xẩm, té xỉu bất tỉnh xuống mặt đường. Còn gì nữa chung quanh ông cũng chìm lịm theo viên đá thả xuống đáy hồ. Toán người vực ông Chí thả trên băng lái. Chiếc xe tháo máy hụ còi buồn thảm chạy về bệnh viện...

 

*

 

    Đoàn xe xác lạnh lùng lăn qua âm thầm ngang từng dãy phố kéo cứng cửa. Người ta hắc hơi ho sặc, bịt mũi, chui trốn, mửa ói. Mùi xú uế. Nơi họp xác trong bệnh viện, đám người mất thân nhân, nhận không ra mặt con cháu anh em, than khóc ngút trời. Những mái tóc rủ xõa bời bời rối nùi điên dại. Người già mất đứa con trai xâm chữ lảy đảy chạy quanh dãy xác sắp dài hàng. Tìm trong đó một hồi, đôi mắt người già mù chóa theo màu nước đỏ nước xanh, nâu sẫm trên những con xác đều đều giống nhau như khuôn đúc. Người già biết không đường nào nhận ra thằng con. Dưới tàn cây úa héo, tiếng kêu than nghiêng ngữa dội động trong cỏi tim ông đau nhói. Người già thất vọng lảo đão đi về một dãy phòng. Phòng số... Ông Chí dưỡng bệnh trên giường, lan man ngó qua phía bên xa góc sân.

 - Bác. Bác.

Người già dừng lại, ngơ ngáo quay mắt nhìn loạng choạng chung quanh. Ông Chí gọi lớn thêm một tiếng, người già quay mặt chợt thấy, nhảy tuốt lên thềm :

 - Ủa, răng ôn nằm đây? Bị đạn hả?                                   

 - Bác vô đây chi?                                                                       

 - Thằng nhỏ tui, chịu. Không tìm ra ôn nạ. 

 - Tui nằm đây nghe họ khóc ngoài nhà xác xốt ruột quá. Tui biết không ai tài chi tìm ra mặt bà con trong đống bò thui khiếp vía nớ. Ôn cũng rứa chớ chi. Bữa qua tui theo đám trẻ trên chùa đi lượm xác bị té xỉu gần chết vô nằm đây hơn một ngày mới hơi khỏe khỏe...                                                                               

 - Còn thằng trẻ ôn?  

 - Chưa có tin. Nhưng chỉ nói bác nghe chớ thằng Lớn hắn biết được rồi cho mình bạc bẽo, thiệt tui không còn quá xót lòng về hắn nữa. Thấy thiên hạ rồi nghĩ chuyện mình không thấm thía vô mô hết...

 Tiếng động cơ rì rầm phía ngoài. Ông Chí nhỗm phóc dậy ngoái đầu loáng thoáng dòm ra phía nhà xác. Đám thân nhân ngồi khóc thê thiết khi đoàn xe thiểu não bò ra nghĩa địa. Ông Chí nghĩ đến những linh hồn đang lất vất giữa vùng trời bất hạnh buốt rét chập chờn trước mắt, những linh hồn đang bay tìm một nơi nào đó dựng cho bát nhanh, thắp lên đám hương khói. Quê hương ông hằng năm đã có ngày hăm ba tháng năm cúng tạ oan hồn tập thể, những bó hoa nắm đậu, trái cây, kính cẩn dâng mời giữa đêm không, ông cầm nắm nhang đưa lên trán lâm râm nguyện cầu nghe rợn rợn trong từng thớ thịt những bóng lạ thấp thoáng đâu đây. Ông buồn tủi nhớ về ngày đó. Tụi Tây đã chém đứt thiên ức vô vạn đồng bào ruột thịt ông ở cửa An Hòa trong Thành Nội, ông sôi máu căm hờn bọn sài lang chó đẻ, nhưng câu chuyện lịch sử nầy vẫn nguôi ngoai vơi dần trong ông, ông đã tìm thấy trong đó đầy đủ lý lẽ biện minh cho hành động bạo tàn của những con thú thực dân. Thee6m một ngày hăm ba tháng năm bây giờ, nhưng tủi hổ quá...

    Ông Chí thở dài :                                                           

 -Bác, tui chán không muốn nghĩ tới đống thịt, nhưng vẫn bị ám ảnh… ảnh

Người già thất vọng:...                                                                              

 - Không biết họ chôn mô cho hết đây nữa.

 - Dưới chưn núi, tui biết. Nhưng coi bộ miếng đất cũng chật chôi lắm. Có lẽ họ đào lỗ bự chôn tập thể, chỉ còn cách nhét đại đống xác xuống lỗ như những con mắm thính mắm rò rỉ nước trong lòng đất...                                                  

 - E thằng nhỏ tui cũng nằm dưới nớ rồi ôn.

Người già sụt sùi khóc, nhưng ông Chí không còn thấy dòng lệ nhỏ tươm nhòa dưới mí mắt. Chiếc miệng méo xệch xách cao một bên  mép dồn lên những luống da nhăn trầy trật điểm cho vuông mặt người già một nét sầu thảm, nhưng buồn cười. Ông Chí lại thở mệt nằm dượi xuống, cơn ngầy ngật xây xỉu của hôm nào đi lượm xác chừng như lộn về nhảy múa táo tợn trước mắt.Người già quờ quạng đưa tay vuốt vuốt lên ngực ông Chí nghe tiếng dội thình thình trong đó tưởng như hai nắm tim muốn vọt phóc ra khỏi buồng phổi. Tiếng la than ngoài nhà xác, tiếng xe ì ầm lết đi, tiếng đập thổn thức trong tim ông Chí, những đổ nhào bấy vụn râm rỉ trong cơn đau người già, khu bệnh viện bao úp lên những thứ đó phật phờ mòn mỏi trong một khoảng không thâm u như cỏi chết chường mặt đâu đó. Ông Chí ngất hơi,bên tai còn lao xao một âm động rã rời bị tán mũn như một nắm bột khô. Người già loay hoay chạy tìm y tá y sĩ rồi bước lê ra ngã nhà xác. Vài ngày sau đó, một cục hạch cồm cồm nổi cao bên háng, ông Chí bị nhiễm độc tử thi. Cơn sốt liệt giường đè ông một ngày dài nhắm mắt rên hừ hừ mê mẩn. Mấy người con gái nhặt xác hôm đó cũng vấp chứng bệnh tương tự nhưng nhẹ hơn ông Chí.

    Thằng Lớn, những ngày biến động,ằm treo chân trong phòng bệnh viện. Hắn gác ở một đầu cầu thị xã hôm mở màn địch quân ngụy trang đột nhập thành phố. Một đồng nghiệp hắn ra hỏi giấy một tên giả trang đàn bà nhà quê lên tỉnh trong khi hắn đứng canh chừng. Tên khả nghi vờ lúi cúi móc giấy tờ, bất thần rút lẹ cây súng hạ thằng Lớn và đồng nghiệp hắn. Hắn may mắn bị đạn xéo, nát giò, nhanh tay, hắn nẽ luôn tên lạ mặt một phát đầu chết không kịp ngáp. Thằng Lớn vô bệnh viện bó chân, mất đứt liên lạc gia đình. Ông Chí nhận tin hắn sau hôm người già gặp ông trong bệnh viện. Cha con vừa biết tin nhau, ông Chí lại vùi lịm trong cơn sốt trầm trọng chưa biết hồi nào tỉnh dậy để thất thểu kéo chân qua từng khu phố, con đường bãi chiến đổ nát tan thương. Trong hơi thở vùi sản, ông Chí thãng thốt lảm nhãm chuyện thằng Lớn bị treo giò, mụ Chí ràn rụa nước mắt lay gọi tên ông, chuyện người già có thằng con phình bụng ễnh ương chôn bẹp trong hầm xác dưới chân núi...

                                           

VĂN  (Số 148 ngày  15-2-1970)

 

"Tết Mậu Thân 1968, sau ngày chết chóc, đường phố Nha Trang chưa kịp dọn xú uế. Anh Hồ Hữu Trực một huynh trưởng Gia Đình Phật Tử tình nguyện nhập đoàn lượm xác trong thành phố. Anh đã kể chúng tôi nghe nỗi kinh hoàng tột độ khi phải bưng những cái xác sình thối như con bò u, phình bụng như con ễnh ương, lên xe chở đi vào những hố chôn tập thể... Những chi tiết anh Hồ Hữu Trực kể được sử dụng trong PHỐ ĐỎ"  (Phan Tấn Uẩn)

 

 

 



 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.