Hôm nay,  

Mỗ

21/11/201900:00:00(Xem: 6312)

 Ngấp nghé bước lên hàng năm, mắt nhiều vết chân chim, da cổ chùng, da bụng nhão… Mỗ cảm nhận cái già đã hiện tướng, cái vô thường đã lãng đãng… nên phát tâm tu học đặng kiếm chút phước huệ về sau. Ban đầu Mỗ cũng bố thí, ăn chay, đi chùa… một sự cố gắng phi thường, vì xưa nay Mỗ chỉ ăn nhậu chơi bời thả giàn, giờ chịu giảm bớt hưởng lạc để cho đi; việc ăn chay kể cũng khá vất vả. Mỗ than:

 - Trời, sao mấy ông thầy giỏi quá! đồ chay nhạt nhẽo, ăn cứ như bò nhai rơm, đã vậy còn mau đói bụng thấy mồ!

 Nói thì nói vậy, nhưng Mỗ quyết tâm ăn chay vào những ngày vía trong tháng. Nhiều lúc Mỗ mong sao cho những ngày ấy qua nhanh một chút:

 - Những ngày vía thời gian sao trôi chậm thế? có hai mấy tiếng mà sao dài dễ sợ.

 Vợ Mỗ trêu:

 - Anh ăn chay ngày viá mà còn mong cho qua mau, vậy là chưa chứng quả đâu! ráng cố gắng đi, mai kia còn phước thì laị làm quan tiếp!

 Con gái lớn của Mỗ cười ngặt nghẽo:

 - Mẹ ráng tu theo ba, nếu không ba có phước nhiều, kiếp sau laị làm ông lớn. Mấy con nhỏ chân dài nó đu theo là mẹ thua đó.

 Mỗ thấy người mình rất quý kinh Pháp Hoa nên cũng tụng theo. Ngày đầu được mươi trang là đuối, thở hổn hển, mồ hôi ướt cả mặt và lưng áo. Mỗ cố gắng lắm nhưng cái thân ngũ tuần không còn dễ dàng điều khiển theo ý nữa: Bụng thì phinh phính, ngồi rất khó khăn; còn khớp gối cứng đơ không sao xếp bằng được, chỉ mươi phút là phải đổi tư thế, khi thì quỳ, lúc thì quặt ra sau…Quả thật khó khăn để bắt đầu ở cái lứa tuổi này! Nhưng phải công nhận Mỗ thật sự quyết tâm, sau một thời gian thì Mỗ cũng tụng xong bộ Pháp Hoa. Mỗ thú thật không hiểu gì mấy, miệng lẩm bẩm:

 - Thầy dạy, tu học phải dùng lý trí chứ không dùng cảm tình, sao Bồ tát Thường Bất Khinh ngớ ngẩn thế? sao cứ suốt ngày đi bái người ta chi cho họ giận dữ đến độ chửi mắng và đánh đập, thế thì vô tình làm cho người ta tạo nghiệp xấu. Bồ tát phải biết điều này chứ! Rồi còn tháp của Phật Đa Bảo, bay lơ lửng trên không trung, sao giống như tháp của Lý Thiên Vương trong Tây Du Ký thế!

 Mỗ cố công tìm hiểu, phân tích, chia chẻ… nhưng càng nghĩ thì càng thấy rối trí, một hôm Mỗ lên chùa lễ Phật và thăm hoà thượng đã truyền giới. Hoà thượng hỏi thăm thì Mỗ thật thà thưa:

 - Con bỏ công sức làm việc thiện thì thấy cũng dễ, duy có việc tụng kinh sao khó quá, có lẽ do thâm sâu và cao siêu quá nên con không thông, dù có tụng qua nhưng như nước đổ lá môn.

 Hoà thượng trầm ngâm một lúc rồi bảo:

 - Lỗi một phần tại ta, Phật pháp như biển cả, kinh điển nhiều như núi, căn cơ mỗi người mỗi khác…Ấy vậy mà ta cứ bảo chung chung, cho nên Phật tử chẳng nắm được cái cốt lõi của giáo lý, cũng như không biết cái căn bản của việc tu học. Chả trách các Phật tử hiểu đạo lơ mơ lắm, trong khi các tín đồ của đạo khác họ nắm vững giáo lý của họ! Việc này kéo dài đã lâu, càng ngày càng tệ. Bây giờ các Phật tử đến chùa chỉ chăm chăm cầu siêu, cầu an, dâng sớ, giải hạn…Những người khá hơn chút thì tụng thời kinh, đốt nén nhang, bỏ ít tiền vào thùng phước sương… thế là xong! Mấy ông thầy danh văn lợi dưỡng, mượn đạo tạo đời và mấy ông thầy dựa quyền lực thế tục, xu phụ quyền thế…Cũng chỉ mong thế thôi! Bọn họ đang ngày đêm phá hoại chánh pháp, chăm chăm xây chùa to Phật lớn để thoã mãn cái hiếu kỳ của người ta, nhằm mục đích làm du lịch chứ nào phải để tu. Thứ nữa là để tô vẽ cho bộ mặt của quan quyền. Sư tử trùng cấy khắp nơi, từ cao đến thấp, từ xa đến gần; nhân danh Phật sự nhưng làm việc ma!

 Thầy nói một hơi rồi ngưng, hình như thấy mình hơi vô lý khi không xổ cả tâm tư với Mỗ nên nói:

 - Ta lan man quá, đi lạc đề mất, giờ quay laị chuyện của anh nhé! Với người khác thì ta không nói làm gì, nhưng anh đã quy y và thọ giới với ta thì ta phải có trách nhiệm. Ta nói với anh một lời này: Khi con người ta có quyền thế trong tay thì dễ tạo nghiệp xấu lắm, chỉ vì chút danh lợi, địa vị mà họ sẵn sàng haị người, haị vật… để giữ lấy cái vị trí của mình với bất cứ giá nào. Anh đã quy y, đã là Phật tử thì hãy nhớ lấy: Danh lợi chỉ một thời nhưng hậu hoạ của nghiệp xấu thì vĩnh kiếp, đừng vì chút danh lợi mà phải trả giá về sau. Việc học Phật của anh cứ theo chỉ dẫn này nhé! Anh về nhà, lúc rảnh rỗi pha một bình trà và đọc cuốn sách mỏng này “ Phật Pháp Căn Bản”. Anh hãy đọc thật chậm, thật kỹ để hiểu tại sao Phật dạy đời là khổ, nguyên nhân của khổ, cách hết khổ, con đường đi đến hết khổ. Anh phải biết căn bản về những gì gọi là chân chánh của sự thấy biết, suy nghĩ, nói năng, hành động, sanh kế, cố gắng, niệm, định…Sau đó, hằng ngày tụng kinh ít laị, dành thời gian ngồi lắng tâm, lắng hơi thở, tưởng nhớ Phật ( về hình tướng và những đức tính), quán xét hành vi và tâm tư của mình.

 Sau đó thầy đưa cho Mỗ những bản kinh ngắn như: kinh Hạnh Phúc, Châu báu, Nghiệp… và bảo:

 - Anh về làm theo chỉ dẫn của tôi và tụng những bản kinh này, sau vài tháng hoặc khi nào cảm thấy có sự thay đổi từ tâm đến hành thì lên cho tôi biết.

 Mỗ về và làm theo lời hoà thượng, một thời gian sau thì Mỗ thấy khá thoải mái, không còn khó khăn như lúc đầu. Một ngày nọ Mỗ lên chùa khoe với hoà thượng:

 - Những bản kinh ngắn thầy đưa hôm nọ, con thuộc hết rồi. Kinh văn ngắn, lời lẽ dễ hiểu, dễ đọc tụng và dễ thực hành. Những bản kinh ấy khác với Pháp Hoa hay Bát Nhã… quá đồ sộ và thâm sâu khó hiểu..Sau khi tụng thuộc lòng, ngày ngày con đều tụng cả. Con cảm nhận sự an lạc, thâm tâm nhẹ nhõm rất nhiều, nhìn vật nhìn người rõ ràng hơn; có thể buông được ít nhiều những thứ mà trước kia cứ ôm đồm bám víu… Nhưng giờ thì laị có một vấn đề khác xảy ra. Gần đây có người bảo con lẫn lộn giữa Tiểu Thừa và Đại Thừa. Họ còn bảo: đi bên nào thì đi một bên, chứ đi hai bên thì sẽ không đi được! giữa hai bên có nhiều khác biệt, cần phải chọn một!

 Hoà thượng cười hoan hỷ:

 - Vậy thì dễ, chẳng có chi là vấn đề cả! Anh cứ thế mà làm, anh đã có được chút pháp hỷ thì hãy giữ gìn và làm cho nó tăng trưởng, đừng dừng laị, mỗi ngày một chút, mỗi đời một chút…Lâu dần cũng sẽ có lúc ngộ. Còn việc người ta nói thế nào đó thì mặc kệ họ. Anh không thể xây lâu đài mà không có nền móng, còn nếu như anh chỉ có nền móng không thì cũng chẳng tới đâu! Anh cứ vững tâm mà tiến bước, nếu ai còn nói nữa thì anh bảo với họ rằng: Tôi chẳng biết nhỏ hay lớn chi cả, tôi chỉ tu theo giải thoát thừa mà thôi!

 

Tiểu Lục Thần Phong

Ất lăng thành, 8/2019

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi đối với cha mẹ có thể cung kính mà vui vẻ, mới là tận Hiếu. Chữ “Kính” nhấn mạnh việc không để xảy ra sơ suất dù rất nhỏ, phụng dưỡng cha mẹ già xuất phát từ nội tâm, với khuôn mặt vui vẻ, mới có thể nói là “Hiếu.” Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn. Con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.