Hôm nay,  

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Cái Bình Thủy Nước Sôi & TBT (to be) Trần Quốc Vượng

17/04/202008:47:00(Xem: 5707)

blank


Nếu bạn để chính phủ điều hành sa mạc Sahara, trong 5 năm chúng ta sẽ thiếu cát. 

Milton Friedman


Tôi sống hơi dai, trải dài từ thế kỷ này qua thế kỷ khác nên đã có dịp đưa tiễn khá nhiều vật dụng tân kỳ (máy đánh chữ, máy fax, máy ảnh chụp phim, radio, akai cassette, DVD …) về nơi an nghỉ cuối cùng. Cứ tưởng như thế là tất cả đều đã mồ yên mả đẹp, và sẽ tiêu diêu nơi miền cực lạc nhưng thực tế lại không hẳn thế.


Bữa rồi, đang liếc mạng tôi chợt thấy loáng thoáng mấy từ (“các phích, bình thủy nước sôi”) trong một stt ngắn của FB Nguyễn Đình Bổn mà không khỏi ngạc nhiên:


Chuyện... không thể tin được tại một bệnh viện lớn nhứt miền Bắc! Bênh viện Bạch Mai, hiện đang là ổ dịch số một tại VN, và đang lây nhanh ra cộng đồng, dự báo những ngày tới sẽ bùng phát mạnh hơn. Nguyên nhân được cho là từ... các phích (bình thủy) nước sôi mà dân phải mua từ công ty Trường Sinh, mà công ty này cung cấp dịch vụ cho khoa Dinh dưỡng.Tôi thực sự không hiểu sao cái thời mà mọi cán bộ đều dùng cụm từ "chúng ta đang ở thời kỳ...4.0" mà cái bệnh viện số một la mã này vẫn... đun nước, rót vô bình để bán cho bệnh nhân theo cách 4.. thủ công như vậy?


Trời! Phích nước (thermos) hay còn gọi là bình thủy được phát minh từ năm 1892, và trở thành mặt hàng thương mại thông dụng trên toàn cầu từ đầu thế kỷ thứ XX lận. Đã hơn trăm năm qua rồi, bây giờ thì còn đào đâu ra được cái thứ đồ antique đó nữa – hả Giời? 


Ở chỗ nào khác thì không biết, chớ ở miền Nam VN thì cái phích là một vật dụng  quen thuộc trong mọi gia đình cho tới khoảng giữa thập niên 1960. Đến thời điểm này thì không chỉ bếp điện mà cả bếp ga cũng đã tràn lan nhiều nơi. Nấu một ấm nước sôi chỉ cần vài phút đồng hồ thôi nên cái thermos đã trở thành demodée, và đã đi vào nghĩa địa lâu lắm rồi mà. Sao nó có thể lại đội mồ sống dậy (và sống hiên ngang) giữa một cái bệnh viện lớn nhất Hà Nội, vào Thế Kỷ XXI được vậy cà?


FB Nguyễn Đình Bổn cho biết thêm:

Nếu nằm viện, người nhà bệnh nhân sẽ phải đăng ký nhận nước sôi hàng ngày. Phải trả tiền “thế chân” 100.000 đồng/phích, mỗi lần thay nước 5.000 đồng. Ngày thay 1-2 lần. Nếu ra viện, trả lại phích thì lấy lại được tiền thế chân! Đây là bệnh viện lớn, luôn có bệnh nhân trên số ngàn, riêng việc này nhân lên là biết. Và cũng chính vì phải luân phiên đi tới đi lui đổi trả cho hàng ngàn người, các nhân viên công ty Trường Sinh một khi nhiễm bệnh sẽ trở thành con thoi, đi khắp các khoa, phòng, tiếp xúc mọi nơi.

Té rứa!

Rứa mới biết không phải mọi thứ cổ lỗ đều bị thiên hạ vứt vào thùng rác. Hoá ra đời không thiếu chi những người hoài cổ hay hiếu cổ, chứ chả riêng gì Bà Huyện Thanh Quan. Thường Trực Ban Bí Thư (& TBT to be) Trần Quốc Vượng là một người như thế. 

Ngày 9-03-2020 vừa qua, nhân vật này thay mặt bộ chính trị, ban hành kết luận “tiếp tục thực hiện Nghị quyết T.Ư 5 khóa IX về đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, hợp tác xã.” Ông khiến cho lắm người hốt hoảng, và trong cơn hoảng hốt không ít kẻ đã “lỡ lời” xúc phạm đến những vị lãnh đạo cấp cao: 

Phạm Minh Vũ: “Thế hệ Vượng, một thế hệ vứt đi!”

 Ngô Trường An: “Đ* móa! Kinh tế tập thể thì đã từng thực hiện hàng chục năm rồi, dân từng đói rã họng rồi, đổi mới gì nữa mấy cha? Cướp thì nói cướp đi. Chiêu này xưa rồi Diễm!”

Mạc Văn Trang: “Cái kinh tế tập thể là thiết yếu theo nghị quyết của Bộ Chính trị làm cho nhiều người rất là sợ hãi. Bởi vì cái chữ ‘kinh tế tập thể, hợp tác xã’ ở Việt Nam diễn ra từ năm 1960 cho đến những năm 1986. Trong gần 30 năm, nó khủng khiếp quá. Người ta nghĩ rằng hợp tác xã, kinh tế tập thể là khủng khiếp lắm, vì kết quả đã làm cho toàn dân phải đói.”

Nguyễn Tiến Dân: “Bế tắc về Lý luận, tất yếu, sẽ thất bại trên thực tế. Mọi giải pháp ‘hay ho’ nhất đã được đưa ra từ cái bọn ngạo mạn, tự mạo nhận là ‘đỉnh cao trí tuệ của nhân loại’. Trong đó, có cả ‘người giời’ Phú Trọng. Giờ, thất bại toàn tập, đành phải quay trở về với cái máng lợn sứt vậy.” 

Phạm Thành :“Cái hợp tác xã, sau gần 30 năm tồn tại, đến cứt nát cũng không còn để phân phối, nếu năm 1986 mà không bỏ nó đi, không cho nông dân mượn lại đất để sản xuất thì 1/3 người dân Việt Nam đã phải bỏ mạng vì đói ăn, rách mặc rồi. Trần Quốc Vượng, tên cộng sản lại giống độc ác.” 

Lê Công Định :“Đảng cầm quyền Việt Nam vẫn đang điều hành nền kinh tế hiện đại bằng tư duy của các lãnh tụ Cộng sản thuộc thế hệ hơn 100 năm trước.”

Ơ hay! Thế cái thremos không đã từng xuất hiện cả trăm năm trước à? Trăm năm sau nó vẫn sống hùng (sống mạnh) ngay giữa Thủ Đô Của Lương Tâm Nhân Loại, và vẫn có vai trò tích cực đấy thôi! Đồ cổ nếu biết xử dụng đúng cách thì vẫn hữu dụng như thường. Phải đặt mọi thứ – từ cái Nghị quyết T.Ư cho đến cái thermos – trong bối cảnh của nó thì mới hiểu được mọi chuyện một cách ngọn ngành! 

blank


 
Ai chả biết là đặt những máy lọc nước nóng/lạnh là chuyện rất đơn giản và tiện lợi nhưng làm thế thì mất đi một nguồn lợi đáng kể cho rất nhiều người. Tương tự, mô hình kinh tế tập thể/hợp tác xã tuy không hiệu quả nhưng mức lại quả thì rất hấp dẫn, và chả gây thiệt hại cho ai cả: 

Chục tỉ chứ ngàn tỉ khó đòi cũng chả khiến ai phải chịu trách nhiệm gì ráo trọi, và vì cha chung nên cũng chả ai buồn khóc. Chủ trương “phát triển kinh tế tập thể/hợp tác xã” tuy sẽ lại đưa kinh tế quốc gia vào cái vòng (bần cùng) lẩn quẩn nhưng cũng sẽ giúp cho xã hội toàn trị ổn định như thời xa xưa cũ. 

Với kiểu cơ cở hạ tầng kiểm soát toàn tập này thì mới có thể ngang nhiên xếp sẵn ghế ngồi (trên đầu thiên hạ) trước khi bầu bán và “các anh ở trên” mới có thể tiếp tục múa gậy vườn hoang (“hiến pháp đứng sau cương lĩnh của đảng” , “bộ công an hiệp đồng với quân đội góp phần bảo vệ đảng bảo vệ chế độ”) mà không bị chúng vả cho vỡ mồm ra.

blank


Tiện lợi mọi mặt và mọi đường như thế nên với bất cứ đồng chí lãnh đạo nào thì “phát triển kinh tế tập thể” cũng đều là “xu thế tất yếu” cả, chứ chả riêng chi Tổng Bí Thư (to be) Trần Quốc Vượng. Dưới chế độ toàn trị hiện nay ở Việt Nam thì con chó nào mà không ăn cứt! 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đến nay, đối với đồng bào ở trong nước và cộng đồng người Việt ở hải ngoại kể từ 30-4-1975, sau 45 năm, những ngày ấy, những năm tháng ấy, không bom đạn trên đầu, nhưng sao trong lòng của mỗi chúng ta cứ lo âu, xao xuyến, sục sôi những chuyển đổi. Không sục sôi chuyển đổi sao được, những tiến bộ Khoa học Công nghệ 4.0, nhất là sự tiến bộ của điện toán, của hệ thống truyền thông, thông tin vượt tất cả mọi kiểm soát, vượt mọi tường lửa, thế giới phô bày trước mắt loài người, trước mặt 90 triệu đồng bào Việt Nam, những cái hay cũng như những cái dỡ của nó một cách phũ phàng.
“Bà X khoảng bốn mươi tuổi, hiện đang sống với chồng và con gái trong một căn nhà do chính họ làm chủ, ở California. Bà nói thông thạo hai thứ tiếng: Anh và Việt. Phục sức giản dị, trông buồn bã và lo lắng, bà X tuy dè dặt nhưng hoàn toàn thành thật khi trả lời mọi câu hỏi được đặt ra. “Bà rời khỏi Việt Nam vào năm 1980, khi còn là một cô bé, cùng với chị và anh rể. Ghe bị cướp ba lần, trong khi lênh đênh trong vịnh Thái Lan. Chị bà X bị hãm hiếp ngay lần thứ nhất. Khi người anh của bà X xông vào cứu vợ, ông bị đập búa vào đầu và xô xuống biển. Lần thứ hai, mọi chuyện diễn tiến cũng gần như lần đầu. Riêng lần cuối, khi bỏ đi, đám hải tặc còn bắt theo theo mấy thiếu nữ trẻ nhất trên thuyền. Chị bà X là một trong những người này.
Tìm được ý nghĩa thực của phương trình từ năm 2012 nhưng không dám công bố vì còn kẹt một bí mật cuối cùng, loay hoay nghiên cứu, tìm tòi hàng năm không giải nổi. Nó nằm trong chữ C² (C bình phương) – bình phương tốc độ ánh sáng. Vật chất chỉ cần chuyển động nhanh bằng (C), tốc độ ánh sáng, là biến thành năng lượng rồi, còn sót cái gì để mà đòi bay nhanh hơn? – C+1 đã là dư. C nhân hai, nhân ba là dư quá lố, vậy mà ở đây còn dư kinh hồn hơn, là c bình phương lận – c nhân với c (186,282 x 186,282) nghĩa là khoảng 34,700,983,524 dặm/ giây!
Sau trận Phước Long 6/1/1975, Hoa Kỳ im lặng, Ủy ban Quốc tế Kiểm soát và Giám sát Đình chiến bất lực, cuộc chiến đã đến hồi chấm dứt. Ngày 10/3/1975, Thị xã Ban Mê Thuột bị tấn công thất thủ sau hai ngày chống cự, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân, cao nguyên Trung phần lọt vào tay cộng sản. Ngày 8/3/1975, quân Bắc Việt bắt đầu tấn công vào Quảng Trị, Quảng Trị mất, rồi các tỉnh miền Trung lần lượt mất theo.
Khi bỏ nước ra đi tìm tự do, tất cả bậc cha mẹ Việt Nam đều nghĩ đến tương lai của các đứa con mình.Các con cần phải học, học và học… Sự thành đạt của con em chúng ta trong học vấn được xem như là sự thành công và niềm hảnh diện chung của cha mẹ Viêt Nam trên miền đất hứa.
Tháng Tư lại trở về, gợi nhớ đến ngày cuối cùng, lúc toàn miền Nam rơi vào tay đoàn quân xâm lược từ phương bắc, lần này là lần thứ 45! Trong ký ức của mỗi người dân miền Nam chúng ta, có biết bao nhiêu khúc phim lại được dịp hiển hiện, rõ ràng và linh động như vừa mới hôm qua. Có người nhớ đến cảnh hỗn loạn ở phi trường Tân Sơn Nhất, có người không sao quên được những năm tháng tù tội trong trại giam cộng sản, có người nghẹn ngào ôn lại cảnh gia đình ly tán trong những ngày kinh hoàng đó, và có biết bao người còn ghi khắc mãi những ngày lênh đênh trên sóng nước mịt mù hay băng qua rừng sâu núi thẳm để tìm đến bến bờ tự do.
Tôi sinh ra đời tại miền Nam, cùng thời với “những tờ bạc Sài Gòn” nhưng hoàn toàn không biết rằng nó đã “làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ” của nửa phần đất nước. Và vì vậy, tôi cũng không thấy “phấn khởi” hay “hồ hởi” gì (ráo trọi) khi nhìn những đồng tiền quen thuộc với cuộc đời mình đã bị bức tử – qua đêm! Suốt thời thơ ấu, trừ vài ba ngày Tết, rất ít khi tôi được giữ “nguyên vẹn” một “tờ bạc Sài Gòn” mệnh giá một đồng. Mẹ hay bố tôi lúc nào cũng xé nhẹ nó ra làm đôi, và chỉ cho tôi một nửa. Nửa còn lại để dành cho ngày mai. Tôi làm gì được với nửa tờ giấy bạc một đồng, hay năm cắc, ở Sài Gòn – vào năm 1960 – khi vừa mới biết cầm tiền? Năm cắc đủ mua đá nhận. Đá được bào nhỏ nhận cứng trong một cái ly nhựa, rồi thổ ra trông như hình cái oản – hai đầu xịt hai loại xi rô xanh đỏ, lạnh ngắt, ngọt lịm và thơm ngát – đủ để tôi và đứa bạn chuyền nhau mút lấy mút để mãi
Chiến tranh Việt Nam có hai chiến trường: Đông Dương và Mỹ. Bắc Việt cố gắng kéo dài cuộc chiến trên chiến trường Việt Nam và đồng thời làm mệt mỏi công luận trên chiến trường Mỹ. Đứng trườc chiến lược này và kế thừa một di sản là sức mạnh quân sự, các tình trạng tổn thất và phản chiến đang gia tăng, Tổng thống Nixon cân nhắc mọi khả năng trong chính sách. Nixon quyết định chỉnh đốn các trận địa chiến cho miền Nam Việt Nam trong khi củng cố khả năng chiến đấu cho họ. Sự giảm bớt vai trò của chúng ta sẽ hỗ trợ cho công luận trong nước Mỹ. Trong thời gian này, Nixon cũng để cho Kissinger tổ chức mật đàm càng nhanh càng tốt.
Bất kỳ chiến lược nào để giảm bớt mối đe dọa từ các chính sách xâm lược của Trung Quốc phải dựa trên sự đánh giá thực tế về mức tác động đòn bẩy của Hoa Kỳ và của các cường quốc bên ngoài khác đối với sự tiến hóa bên trong nội bộ Trung Quốc. Ảnh hưởng của những thế lực bên ngoài đó có giới hạn về cấu trúc, bởi vì đảng sẽ không từ bỏ các hoạt động mà họ cho là quan trọng để duy trì sự kiểm soát. Nhưng chúng ta quả thực lại có những khí cụ quan trọng, những khí cụ này hoàn toàn nằm ngoài sức mạnh quân sự và chính sách thương mại. Điều ấy là những phẩm chất “Tự do của người Tây phương” mà người Trung Quốc coi là điểm yếu, thực sự là những sức mạnh. Tự do trao đổi thông tin, tự do trao đổi ý tưởng là một lợi thế cạnh tranh phi thường, một động cơ tuyệt vời của sự cách tân và thịnh vượng. (Một lý do mà Đài Loan được xem là mối đe dọa đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, chính là vì nó cung cấp một ví dụ với quy mô tuy nhỏ nhưng lại hùng hồn về sự thành công của hệ thống chính trị và kin
Nửa tháng trước hiệp định Genève (20-7-1954), trong cuộc họp tại Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Cộng), từ 3 đến 5-7-1954, thủ tướng Trung Cộng Châu Ân Lai khuyên Hồ Chí Minh (HCM) chôn giấu võ khí và cài cán bộ, đảng viên cộng sản (CS) ở lại Nam Việt Nam (NVN) sau khi đất nước bị chia hai để chuẩn bị tái chiến. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, Dương Danh Dy dịch, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt".) (Nguồn: Internet). Hồ Chí Minh đồng ý.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.