Hôm nay,  

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Cái Làn

08/06/202010:33:00(Xem: 4871)

blank


Những thuật ngữ “Đảng ta,” “Nhà nước ta,” “quân và dân ta”… chỉ là cách nói “với dụng ý đánh đồng các thành phần trong hệ thống chính trị của Đảng Cộng sản với toàn thể quốc dân và xã hội. Đây chỉ là “một phép nguỵ biện về lô-gích và một sự trâng tráo về hành xử.

La Thành  

Khi được hỏi về “đàn ông,” nhà văn Phạm Thị Hoài (cố nén một tiếng thở dài) đáp khẽ:

“Đàn ông Việt Nam thường thừa nhận đàn bà Việt Nam lắm đức hạnh, ít nhất là cái đức chịu khó chịu thương. Song họ quên rằng, phần lớn những cái đức đàn bà ấy, nhất là đức chịu khó và cả chịu thương nữa, chỉ là cái khôn của cảnh khó. Các nhân vật nữ cũa tôi bày tỏ rõ ràng khao khát được ít đức hạnh đi một chút, được chia đều đức hạnh cho đàn ông gánh bớt. Lắm đấng ông chồng vui vẻ xách làn đi chợ hộ vợ, thế là văn minh rồi, nhưng cáng cho vợ cái đức hay lam hay làm thì ít ông chịu.”

Ôi, tưởng gì chớ tật xấu của đàn ông (nói chung) và đàn ông Việt Nam (nói riêng) thì e đám đàn bà phải càm ràm cho tới… chết – hay ngược lại. Không mắc mớ gì mà tôi lại xía vô mấy chuyện lằng nhằng (và bà rằn) cỡ đó. Nhưng riêng hai chữ “cái làn” trong câu nói (“Lắm đấng ông chồng vui vẻ xách làn đi chợ…”) của Phạm Thị Hoài thì khiến tôi bần thần, cả buổi!

Năm 1954, cái làn (cùng nhiều cái khác: cái bàn là, cái bát, cái cốc, cái ô, cái môi, cái thìa…) đã theo chân mẹ tôi di cư từ Bắc vào Nam. Cuộc chung sống giữa cái bàn là với cái bàn ủi, cái bát với cái chén, cái cốc với cái ly, cái ô với cái dù, cái môi với cái vá, cái thìa với cái muỗm… tuy không toàn hảo nhưng (tương đối) thuận thảo và tốt đẹp.

1954 - 1975: thời gian, dù ngắn, đủ xoá nhoà mọi ngăn cách giữa những “cái” vừa kể. Rồi ra, ai cũng biết: cái mền là cái chăn, cái mùng còn gọi là cái màn, cái phong bì với với cái bao thư là một, cái bật lửa đã trở thành bựt lửa, cái hôn và cái hun cùng một nghĩa – như nhau.

Cái làn, tiếc thay, không có được sự hội nhập dễ dàng (và lẹ làng) tương tự. Bên cạnh cái giỏ ny lông mầu sắc, rắn chắc và tươi tắn, cái làn đan bằng mây hay bằng cói trông tội lắm: già nua, quê mùa, ọp ẹp, bẹp xẹp, xấu xí và (thường) hơi bẩn thỉu. Nó không thể sánh vai, chung bước với cuộc đời. Cái làn, do thế, rất ít khi đi ra khỏi cửa. Nó chỉ ở rịt trong nhà với mẹ tôi thôi.

Tôi thì khác. Tôi có số xa nhà.

Thiên hạ rời nhà là tắp ngay vào ngay khách sạn, hay phòng ngủ.

Tôi thì không.

Tôi hay la cà ở đầu đường xó chợ, và ngủ bờ ngủ bụi, nên thỉnh thoảng vẫn bị túm vào những nơi tập trung – có tên gọi bắt đầu bằng chữ “trại”: trại tù, trại bệnh, trại phục hồi nhân phẩm, trại cải tạo…

Đời sống ở tất cả những cái trại (thổ tả) này đều có một điểm chung bất biến là… thiếu thốn! Vì vậy, tôi đi đến đâu là mẹ già – cùng với cái làn – lại phải lẽo đẽo theo sau đến đó, để thăm nuôi. Cho đến khi thằng con lưu lạc đến những trại tị nạn xa lắc xa lơ, ngoài biên giới quốc gia, bà cụ với cái làn mới thôi xuất hiện.

Từ những góc bể chân trời xa lạ, mỗi khi ngoảnh nhìn về quê cũ, bao giờ tôi cũng chỉ thấy trời chiều ùn lên những khối mây trắng đục. Hình ảnh quen thuộc của mẹ già – còng lưng với cái làn thức ăn, nặng trĩu trên tay – cứ nhạt nhoà dần rồi… mất hẳn, không biết tự bao giờ.

Mẹ tôi qua đời đã lâu. Người đàn bà cuối cùng ở miền Nam – vào hậu bán Thế Kỷ XX – vẫn còn (thỉnh thoảng) xách làn đã mất. Mọi thứ liên quan đến bà, tuởng chừng, cũng đều đã trở thành hư ảo. Vậy mà chiều qua (chợt) nghe có người nhắc đến… cái làn. Sao không dưng mà bàng hoàng nhớ mẹ, nhớ nhà, và nhớ chốn cũ quê xưa đến rưng rưng nước mắt!

Đợt di cư thứ hai, từ Bắc vào Nam – khởi sự vào năm 1975 – ồn ào và lào xào hơn trước. Những thứ được mang theo, đến vùng đất mới, cũng linh tinh và lỉnh kỉnh hơn xưa: nón cối, dép râu, súng đạn, bác Hồ, tem phiếu, sổ gạo, cửa hàng ăn uống quốc doanh, bản khai lý lịch, mẫu đơn xin tình nguyện đi vùng kinh tế mới, trại cải tạo, ông công an phường, bà tổ trưởng dân phố, anh công an khu vực, chị hội trưởng hội phụ nữ, nghĩa vụ lao động, chiến dịch kiểm kê tài sản, chính sách cải tạo công thương nghiệp, Chủ Nghĩa Mác Xít Lê Nin Nít Bách Chiến Bách Thắng Vô Địch Muôn Năm…

Tất cả đều rất mới lạ, và (xem chừng) đe dọa. Chỉ riêng cái Tinh Thần Làm Chủ Tập Thể, được nhắc đến thường xuyên qua loa – đài là (nghe) có vẻ hiền hoà:

Đảng ta
Nhà nước ta
Xã hội ta
Nhân dân ta
Quốc hội ta
Bộ đội ta
Sứ quán ta


Người phát ngôn của Bộ Ngoại Giao ta…

So với cái tôi nhỏ bé, bình thường (cố hữu) của những người thuộc phe bại trận, cái ta – thoạt nghe – có vẻ vị tha, bao dung, và cao cả. Nó khiến người ta nghĩ ngay đến cái chung, đến sự liên đới, tính kết đoàn. Và “kết đoàn chúng ta là sức mạnh.”

Ý nghĩ tích cực này – tiếc thay – không ai giữ được luôn, và cũng chả ai giữ được lâu. Cuối cùng, nhà văn Đào Hiếu (qua BBC) đã lên tiếng như sau:

“Nếu cái đất nước giàu tài nguyên này, cái quê hương ‘rừng vàng biển bạc’ này là của nhân dân, sao nhân dân nghèo khổ đến vậy?”

“Sao những chàng trai nông thôn chân lấm tay bùn vẫn ở nhà tranh vách đất?”

“Sao những cô gái quê phải lên thành phố bán thân?”


“Sao bác phu xích lô vẫn còng lưng đạp mỗi ngày, sao lớp trẻ con nhà lao động phải nhễ nhại mồ hôi trong các khu chế xuất, các mỏ than, các nhà máy chế biến hải sản, lâm sản, nông sản…chỉ để kiếm chưa đến một trăm đô la mỗi tháng?”

“Sao nhân dân lao động vẫn phải chui rúc trong những căn nhà tồi tàn chật hẹp?”

“Nếu rừng là vàng, biển là bạc thì vàng ở đâu, bạc đi đâu, mà mỗi lần làm đường, xây cầu lại phải vay vốn ODA, vay vốn Ngân hàng Thế giới, Quỹ tiền tệ Thế giới… để xảy ra những vụ tham nhũng nhục nhã như PMU18, như vụ cầu Văn Thánh, như vụ PCI Nhật Bản… và hàng ngàn vụ khác?”

“Nếu đất nước này là của nhân dân thì sao dầu mỏ khai thác nhiều như vậy mà dân không giàu? mà Đảng lại giàu?”

“Nếu đất nước là của nhân dân sao lại chỉ có một nhúm các tập đoan tài phiệt phất lên nhờ kinh doanh rừng, biển, đất đai và lúa gạo… trong khi nhân dân thì bị cướp đất, rừng thì bị phá, thóc lúa thì bị thương lái ép giá, đẩy nông dân vào kiếp sống bần cùng?”

Còn nhiều cái “sao” khác nữa mà Đào Hiếu không đủ thì giờ để giải bầy, một cách tường tận, bằng giấy bút (qua một bài báo ngắn) nhưng vẫn thường được dân Việt nói từ lâu – trong câu chuyện hàng ngày:


- Sao Đảng (ta) sinh hoạt cứ y như một chi bộ của Đảng Cộng sản Tầu vậy cà?

- Sao Quốc hội (ta) chỉ làm có mỗi một một việc là chuẩn phê mọi quyết định của Đảng (ta) chứ không bao giờ phản ảnh bất cứ nguyện vọng nào của nhân dân (ta) hết trơn hết trọi?

- Sao Bộ đội (ta) chả có phản ứng gì ráo trước tình trạng lãnh thổ bị xâm phạm trắng trợn như thế?

- Sao Sứ quán (ta) không có hoạt động gì khác ngoài chuyện chuyên buôn lậu, làm tiền kiều bào và làm điềm chỉ viên cho Nhà nước?

- Sao những Người Phát ngôn của Bộ Ngoại giao (ta) hễ cứ mở miệng ra là nói dối xoen xoét hay là chối ngay, chối bay, chối biến, chối phăng, chối phắt, chối nằng nặc, chối bai bải, chối đây đẩy, chối quầy quậy, chối tuốt luốt, và cực lực bác bỏ hết chuyện này đến chuyện nọ… như vậy?

Nói nóm lại là sao nhà nước ta, đảng ta, chế độ ta, nhân dân ta lúc nào cũng khốn nạn, đểu giả, bạc nhược, thối nát, nhếch nhác… đến thế? Những vấn nạn này hiện nay đã được đặt ra ở khắp mọi nơi, và đâu đâu cũng nhận được một câu trả lời (gọn lỏn) của nhà văn Hoàng Ngọc Hiến:

  • Cái nước mình nó thế!


Thế nà thế lào? Nhà thơ Hoàng Hưng lý giải trên một bài viết (“Từ Cách Thưởng Hoa Đến Nhân Cách”) đọc được trên talawas thế này đây:

“Để bù đắp lại cái quyền tự nhiên của mình bị ngăn trở, cái tôi bèn tìm mọi cách trốn tránh trách nhiệm, và ‘nhanh mắt, nhanh tay’ ăn cắp, thậm chí ăn cướp mỗi khi ‘cái ta’ sơ hở; nhưng cách hay nhất, thực tế đã chứng tỏ hiệu quả nhất, là lẩn trốn trong bóng ‘cái ta’, núp ngay dưới danh nghĩa ‘cái ta’ mà ăn cắp, ăn cướp của chính ‘cái ta’ và của những ‘cái tôi khác’ yếu hơn mình (về thủ thuật này, nêu gương một cách xuất sắc chính là những vị có chức có quyền). 


Mức độ nhẹ hơn nhưng hết sức phổ biến từ trên xuống dưới: khi không có điều kiện hoặc chưa đủ tâm địa ăn cắp/ ăn cướp, người ta chọn lối sống ‘cha chung không ai khóc’, ‘mackeno’. Và một trong những hậu quả của việc ‘cái tôi’ phải ‘sống chui’ ấy là thói đạo đức giả lan tràn trong xã hội đến mức có lần trong một hội thảo khoa học, GS Phan Đình Diệu phải cay đắng nói rằng: sự giả dối đang trở thành ‘bản sắc dân tộc’!”

Nếu quả là cố giáo sư Phan Đình Diệu có nói như thế thì tôi e rằng ông đã nói trong một lúc hơi (bị) yếu lòng! Bản sắc dân tộc Việt ta không kém cỏi (đến) như thế, và cũng không phải lúc nào cũng ở tình trạng thụ động như vậy.

Thầm lặng và từ tốn, vô thức tập thể có thể đã làm cái công việc đãi lọc và chuyển đổi từ ta qua tôi (hoặc “mình”) từ bấy lâu nay. Sở hữu đại danh tự ta  đang dần biến mất trong ngôn ngữ hàng ngày, ở Việt Nam. Nơi đây, người dân (thôi) không còn muốn nói đến nhà nước ta, đảng ta, chế độ ta, bộ đội ta, quốc hội ta… nữa. Cả nước đều… oải cái “ta” của “cách mạng” lắm rồi!

Ngôn ngữ có nhịp thở, và đời sống (cũng như tuổi thọ) riêng của nó. Cái cốc, cái màn, cái môi, cái thìa, cái bút, cái hôn… – sau khi vào Nam đã hội nhập và sống thuận hoà nơi vùng đất mới. Đôi dép râu, cái sổ gạo, cái cửa hàng ăn uống quốc doanh, cái Chủ Nghĩa Mác Xít Lê Nin Nít Bách Chiến Bách Thắng Vô Địch Muôn Năm thì lặng lẽ… đi vào nghĩa địa! Cái Tinh Thần Làm Chủ Tập Thể (nghe tử tế là thế) cũng cùng chung số phận. 


Những thuật ngữ “Đảng ta,” “Nhà nước ta,” “quân và dân ta”… chỉ là cách nói “với dụng ý đánh đồng các thành phần trong hệ thống chính trị của Đảng Cộng sản với toàn thể quốc dân và xã hội.” Đây chỉ là “một phép nguỵ biện về lô-gích và một sự trâng tráo về hành xử.” (La Thành. “Tính ‘Chính/ Ngụy’ Của Quyền Lực Nhà Nước” – talawas).

Sự ngụy biện, và cách hành sử trân tráo này, không còn được người Việt chấp nhận. Nước mình, dân tộc mình vẫn còn đó (và sẽ còn hoài) nhưng chế độ ta, đảng ta, quốc hội ta… thì e không còn (sống) được bao lâu nữa. Đó là qui luật của sự tiến hoá. Cũng như chuyện cái làn thì đã từ trần nhưng cái lồn thì vẫn sống vô tư, sống hồn nhiên, sống phây phây, và sống hây hây – mãi mãi.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong khi tham vọng kiểm soát của chế độ toàn trị vẫn như cũ, có một số khác biệt giữa những nỗ lực của Mao và Tập Cận Bình. “Tư tưởng của Tập Cận Bình là một thay thế nhạt màu cho Sách Đỏ của Mao. Tập Cận Bình đã không thể đưa ra một ý thức hệ mạch lạc để truyền cảm hứng cho sự cuồng tín trong những người theo ông, khác một chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc chung chung. Mặt khác, Tập có các công cụ công nghệ khả dụng mà đơn giản là không áp dụng cho những nhà độc tài trong thế kỷ 20. Hệ thống tín dụng xã hội kết hợp tất cả các phương pháp của thông minh nhân tạo, dữ liệu quy mô, cảm biến lan tỏa và đặt các phương tiện này vào trong tay nhà nước Trung Quốc. Cả Stalin và Mao đều không thể kiểm soát trực tiếp các phong trào hàng ngày, lời nói và giao dịch của từng đối tượng theo cách mà đảng Trung Quốc về mặt lý thuyết có thể làm ngày nay.
Một dự luật đã được đưa ra Quốc Hội Nhân Dân của Đảng Cộng Sản Trung Hoa (CSTH) ngày 22 tháng 5 năm 2020 tại Bắc Kinh, và đúng một tuần lễ sau, dự luật này đã được nhanh chóng thông qua vả trở thành Đạo Luật An Ninh Quốc Gia (ĐLANQG) về Hồng Kông vào ngày 29 tháng 5. Khi đưa ra Quốc Hội Nhân Dân để bàn thảo và thông qua, dự luật này gồm 7 điểm chính, trong đó ba điểm quan trọng nhất để đối phó và triệt hạ quyền tự chủ cùa Hồng Kông là điều số 2, số 4, và số 6. Theo đó, Bắc Kinh sẽ ngăn chặn tất cả các nguồn yểm trợ từ bên ngoài vào Hồng Kông; sẽ sử dụng được các lực lượng đàn áp từ Bắc Kinh để dập tắt các cuộc biểu tình, những người tham dự biểu tình có thể quy tội phản quốc, ly khai; và từ đó Bắc Kinh sẽ khai triển ra những đạo luật khác để thực hiện các mưu đồ trên.
Đảng Cộng Sản Việt Nam có truyền thống bán nước từ Hồ Chí Minh cho đến ngày nay. Người bán nước số một là Nguyễn Phú Trọng, bán nước một cách tinh vi, từ những bí mật nầy đến những bí mật khác để lừa bịp nhân dân. Đã đặt Việt Nam lệ thuộc vào Trung Cộng, xem như thời kỳ Bắc thuộc lần thứ năm. Tuổi tác đã cao, sức khỏe yếu kém mà muốn ôm cái ghế quyền lực suốt đời. Thủ hạ Nguyễn Hồng Diên thăm dò dư luận bằng những lời lẽ nâng bi quá đáng, làm phản tác dụng, gây phẩn nộ trong quần chúng. Tóm lại, Nguyễn Phú Trọng và đảng của ông đã đặt Việt Nam lệ thuộc vào Trung Cộng, đó là tội đồ của dân tộc.
Khi còn trẻ, đôi lúc, tôi cũng (thoáng) có ý định sẽ trở thành một người cầm bút. Ở một xứ sở mà phần lớn người ta đều cầm cuốc, cầm búa, cầm kìm hay cầm súng… mà định cầm viết thì quả là một chuyện khá viển vông – nếu không muốn nói là hơi xa xỉ. Lúc không còn trẻ (nữa) tôi mới ngộ ra rằng: bút viết nó chọn người, chứ không phải là ngược lại – trừ khi mình cứ cầm đại thì không kể. Tôi không được (hay bị) lựa và cũng không có máu liều – như phần lớn quí vị trong Hội Nhà Văn Việt Nam Đương Đại – nên chuyện viết lách kể như … trớt quớt!
Nuôi dưỡng nền dân chủ giống như kẻ trồng cây: khi còn là hạt giống phải chống đỡ quạ tha gà mổ; cây còn non trẻ cần ngăn ngừa sâu bọ; đến lúc trưởng thành già nua phải chặt bớt những cành lớn không thì một cơn bão lớn sẽ làm đổ ngã thân cây. Việt Nam chưa có dân chủ nên tranh đấu đòi dân chủ. Nền dân chủ non trẻ tại Phi Luật Tân bị đe dọa trở lại độc tài. Dân chủ ở Mỹ trưởng thành lâu đời nay lại nảy sinh ra dấu hiệu già nua thoái hóa thành một hình dạng gì chưa nhận biết được.
Xét về cao độ thì Sơn Núi (Nguyễn Đức Sơn) ở thấp hơn nhiều bạn đồng nghiệp của mình – như Bùi Minh Quốc, Hà Sĩ Phu, Mai Thái Lĩnh, Tiêu Dao Bảo Cự… – xa lắc. Những nhân vật này đều có thời là biên tập viên của tạp chí Lang Biang, tờ báo (đã bị đóng cửa) này lấy tên theo vùng cao nguyên lâm Viên mà họ đang sinh sống. Đỉnh Lâm Viên, ở Đà Lạt, cao hơn hai ngàn mét lận. Từ đây, muốn leo lên trời (để đái, hay làm gì tùy thích) còn tiện hơn nhiều. Ngoài lợi thế nhỏ nhặt này ra, những cư dân ở miền sơn cước gặp phải toàn là những điều (vô cùng) bất tiện. Họ xa cách (mịt mù) với thế giới văn minh, ở những đô thị miền xuôi. Tôm cá hì hục chở lên đến được đến cao nguyên (thường) đã bị ươn, và thông tin khi nhận được thì (ôi thôi) hoàn toàn đã cũ.
Giữa mùa đại dịch COVID-19, tại những buổi tường trình mỗi ngày, Tổng thống Mỹ Donald Trump và Phó Tổng thống Mike Pence không ngớt tiên đoán sự lớn mạnh vượt bực của kinh tế quốc gia Hoa Kỳ sau khi tình hình dịch tễ lắng đọng. Hai ông nhấn mạnh rằng kinh tế Mỹ hậu-COVID-19 sẽ tìm lại thế quân bằng sau những chao đảo khiếp hãi khiến cả 40 triệu nhân công thất nghiệp trong vòng vỏn vẹn ba tháng trời. Đầu tháng Sáu, hy vọng bắt đầu le lói khi guồng máy kinh tế rục rịch mở cửa lại, ai nấy trông đợi ánh sáng tỏa lớn cuối đường hầm.Tuy nhiên, mặc dù người ta có quyền hy vọng vào sự thịnh vượng chung, nhưng sự thật là đối với các thành phần ít may mắn hơn trong xã hội (vâng, phần đông trong đó là những sắc dân da màu thiểu số), khó khăn kinh tế gần như là một điều chắc chắn. Ai cũng tưởng sau khi COVID-19 giáng một đòn chí tử lên kinh tế Hoa Kỳ, thì khoảng cách chênh lệch giữa hai thành phần giàu-nghèo sẽ phần nào thu hẹp, nhưng oái oăm thay, mọi bằng chứng cho thấy sự khác biệt ấy
Do đó, chỉ khi nào người dân được quyền trực tiếp chọn Lãnh đạo qua bầu cử tự do, công bằng và dân chủ thì khi ấy những kẻ bất tài, có thành tích xấu, hay chỉ biết thu vét cho đầy túi tham, lợi ích nhóm hay làm tay sai cho Ngoại bang mới bị loại khỏi đội ngũ cầm quyền. Ngược lại, nếu vẫn tiếp tục chọn người theo thông lệ “đảng cử dân bầu” hay “đảng chọn, cán bộ bỏ phiếu” thì có trăm năm, nhân dân Việt Nam vẫn chưa tìm thấy ánh sáng ở cuối đường hầm.
Khi bỏ nước ra đi tìm tự do, tất cả bậc cha mẹ Việt Nam đều nghĩ đến tương lai của các đứa con mình.Các con cần phải học, học và học… Sự thành đạt của con em chúng ta trong học vấn được xem như là sự thành công và niềm hảnh diện chung của cha mẹ Viêt Nam trên miền đất tự do.
Thây xác trưng ra đó / Còn chưa đủ thối inh? / Mua chi thêm bầy ngựa / Cứt vung cả Ba Đình! - Trần Bang
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.