Hôm nay,  

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Đi

10/12/202011:47:00(Xem: 4481)


blank


Rời khỏi quê hương, chân ướt chân ráo đến một vùng đất an bình và xa lạ, tôi ngồi thở hổn hển cả năm rồi mới hoàn hồn. Ngó trước – ngó sau: té ra, xứ mình không phải là nơi đầu tiên (hay duy nhất) mà dân chúng phải lũ lượt bỏ của chạy lấy người. 


Thiên hạ đã đi tị nạn từ rất nhiều nơi khác, và lắm kẻ đã đi tự lâu rồi. Tuy thế, tôi vẫn tin rằng không dân tộc nào mà chuyện lánh nạn cộng sản lại nhiêu khê, và lê thê (kéo dài suốt từ thế kỷ này sang thế kỷ khác) như đám dân Việt cả.


Sau khi Hiệp Định Geneve 1954, gần triệu người miền Bắc ào ạt di cư vào Nam. Mẹ già kể lại là bà quang ghánh hai đầu: một đầu là tôi (*) với người chị kế, và một chú cún con; đầu kia lủ khủ bao bị, mùng mền, áo quần, gạo muối… Sở dĩ phải có thêm con chó nhỏ vì chị tôi từ chối rời nhà, nếu không cho nó đi cùng. 

Những kẻ chậm chân – ra đi kể từ ngày ba trăm lẻ một, sau thoả hiệp đình chiến –  không còn được coi là dân di cư mà bị coi là “kẻ vượt tuyến.” Chỉ qua tên gọi cũng đủ thấy số phận của họ gian nan hơn hẳn. Đoàn Thêm (trong cuốn Việc Từng Ngày: 1954 – 1964, Nam Chi Tùng Thư xuất bản năm 1966) ghi nhận: 

  • 4 tháng 10, 1956: 3 người liều chết bơi qua sông Bến Hải vào Nam tìm tự do. 

  • 19 tháng 11, 1956: 19 người dân Nghệ An dùng ghe vượt biển vào Nam.

  • 8 tháng 4, 1957: 41 người dùng thuyền vượt tuyến vào Nam.

  • 28 tháng 10, 1957: 2 sinh viên vượt tuyến vào Nam … 

  • 11 tháng 2, 1958: 14 người xuyên qua Lào đến được miền Nam. 

Thảm kịch “vượt tuyến” khiến dư luận xôn xao nhất (có lẽ) là trường hợp của Vũ Anh Khanh. Nhà thơ Viên Linh tường thuật:

“Sau 20 tháng 7, 1954, ông tập kết ra Bắc, nhưng rồi chỉ ba năm sau ông quyết định bơi qua sông Bến Hải trở lại quê hương bản quán, thì một mũi tên tẩm thuốc độc từ bờ Bắc bắn theo ông. Thi sĩ đã không tới được bến bờ tự do, Bến Hải đã trở thành một dòng sông vĩnh biệt.”


Hơn hai thập niên sau, sau khi “miền Nam được hoàn toàn giải phóng” không lâu –  bắt đầu từ cuối thập niên 1970 – Vịnh Thái Lan lại trở thành “vùng biển vĩnh biệt” của hằng trăm ngàn người dân Việt khác. Những kẻ sống sót được nhân loại mệnh danh là boat people vì họ vượt biên bằng thuyền. 


Thuyền nhân có hai loại: bán chính thức và chui. Trong tập thể đi chui, thỉnh thoảng, vẫn có lẫn những kẻ đi hôi hay đi ké. Tôi không có vàng để nộp cho chủ ghe, cũng không đủ trơ tráo (hay táo bạo) để đi hôi nên chọn một phương cách thứ hai: đi ké. 


Rời trại cải tạo ra, tôi về đến Đà Lạt và được biết mình chỉ được phép sống ké (và sống tạm) ở nhà thôi vì không có tên trong sổ hộ khẩu. Thế là tôi đi nữa, dù chưa biết đi đâu. Loay hoay mãi rồi tôi tìm đến một thành phố ven biển. Sau một thời gian bán bánh tiêu, và chạy xe lôi, tôi lân la làm quen (rồi xin phụ việc) cho những người dân ở một xóm chài. 


Tôi không phải là tài công, không phải tài cải (thợ nấu) cũng chả phải là thợ câu hay thợ lưới … mà chỉ là thợ vịn nên được giao cho mọi việc lặt vặt dưới ghe: quăng phao, kéo đục, lựa tôm, lựa cá, dọn dẹp, lau chùi … Tôi làm tất tần tật mọi thứ, và không hề đòi hỏi tiền bạc hay thù lao gì ráo trọi –  ngoài những bữa cơm thanh đạm.


Ban ngày, tôi còn tình nguyện coi ghe từ sáng tới chiều vì lên bờ cũng chả có chỗ đi. Biết đi đâu khi túi không có một đồng, và cũng chả có một tờ giấy tùy thân để lận lưng. Chỉ lỡ đạp bánh tráng thôi cũng đã đủ phiền rồi; còn nhỡ mà đụng công an thì (ôi thôi) chắc chắn là phiền lắm, phiền lâu và phiền lớn. Lại vào tù thêm lần nữa, dễ như không!


Dân chài vốn hào sảng nên những khi trúng đậm (bất kể cá/tôm) thế nào tôi được kéo lên nhà một ông/bà nào đó để ngồi lai rai ba sợi suốt đêm, khỏi phải ra khơi. Cái gì chớ rượu thì chịu quá nhưng vì chỉ thuộc thành phần nhậu ké nên tôi vẫn thường giữ một thái độ ké (né) cho nó dễ coi: uống vừa, nói ít và chỉ cười (trừ) cho tới sáng.


Phần lớn tài công trong vùng đều hành nghề theo thói quen đi biển đã lâu, chứ không mấy ai đã từng lái ghe qua khỏi Hòn Tre và cũng chả mấy người có khái niệm rõ ràng gì về bốn phương tám hướng. Bởi thế, khi bàn rượu rôm rả về chuyện vượt biên – đôi khi – tôi cũng từ tốn góp chút ý kiến về phương giác, và cách xử dụng hải bàn.


Cũng có lúc, tôi dùng ngón tay chấm rượu để vẽ hình mũi Cà Mau (cùng những vùng biển lân cận) và giải thích cho mọi người hiểu tại sao nếu từ Rạch Giá mà muốn qua Thái Lan thì buộc phải đi theo hướng Tây/Nam. Chịch về hướng Tây có thể bị lạc sang Cao Miên. Còn xuôi Nam hẳn thì bị lọt xuống Úc Đại Lợi. Như thế,  sẽ không đủ dầu vì đường rất dài (và cũng rất gian truân) trong khi cả xóm không ai sắm được một cái tầu nào ngon lành cả.


Có lẽ nhờ chút hiểu biết về hải hành mà tui lọt vô mắt xanh của một ông chủ ghe, và được giao cho cầm lái để đi (ké) tới Thái Lan vào mùa Hè 1980. Bốn mươi năm sau, sau khi đã sống đến gần hết cuộc đời của một người tị nạn – vào hôm 17 tháng 6 năm 2020 – tôi tình cờ nghe RFA ái ngại loan tin: “Mười một người Việt Nam vượt biển đi Úc bị bắt giữ ở Đông Timor.”


blank


Họ là những người vượt biên mới nhất theo đường biển, chứ chưa hẳn đã là những kẻ cuối cùng. Đồng bào tôi vẫn tiếp tục ra đi nhưng tuyệt đại đa số lựa chọn nhiều phương cách khác, tùy theo túi tiền và hoàn cảnh. Theo dữ liệu của Tổ Chức Di Dân Quốc Tế (IOM) “từ năm 1990 đến năm 2015 có hơn 2,5 triệu người Việt Nam di cư ra nước ngoài. Tính trung bình trong 26 năm, mỗi năm có khoảng gần 100 nghìn người Việt di cư.” Đây là một hiện tượng bất thường, theo công luận:

  • Blogger Song Chi: “Dòng người ra đi chưa bao giờ dừng lại… Nhưng có vẻ như càng ngày số người tính chuyện ra đi càng nhiều hơn, thành phần đa dạng hơn, tạo cảm giác đất nước như một con thuyền đang đắm!”


  • Nhà báo Nguyễn Quang Duy: “Hầu hết người Việt Nam ra đi lặng lẽ như một làn sóng ngầm (còn gọi là ‘bỏ phiếu bằng chân’). Họ gồm ba nhóm đối tượng chính: Một là giới trí thức (và sinh viên), hai là các doanh nhân (giàu có), ba là gia đình các quan chức (thường là tham nhũng). Họ ra đi do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính thường do cảm giác bất an…”


  • Nhà văn Đào Hiếu: “Đất nước đã bị cưỡng đoạt.”


  • T.S  Phương Mai gọi đây là cuộc “tị nạn niềm tin” của những người không muốn “sống gù.” 


  • Thi Sĩ Inra Sara thêm: Làm thế nào đừng phải đi bằng lưng, làm sao không phải dạ dạ vâng vâng bợ trên đạp dưới, để vẫn có thể sống như là sống? Sống, và có thể sáng tạo?

Những bậc thức giả (thượng dẫn) đã nói thế thì kể như là … hết ý rồi. Tôi chỉ dám (trộm) nghĩ rằng trừ lũ cột đèn, dân Việt ai cũng muốn bỏ đi vì tất cả đều chia chung cái tâm cảm của những kẻ chỉ được sống tạm (hay sống ké) trên mảnh đất quê hương của chính mình. 

Những “bác nông phu vài ngàn năm đứng trên đất nghèo” không hề nao núng nhưng với luật “đất đai là sở hữu của toàn dân” (nên có thể bị thu hồi bất cứ lúc nào) thì bỗng trở nên hụt hẫng.

Sau khi núi rừng bị khai thác đến trơ trụi (và sau những biến động tàn bạo xẩy ra ở Tây Nguyên (20012004) – Điện Biên (2011) không ít sắc dân miền núi ở Việt Nam cũng đành phải rời bỏ bản làng. Họ ra đi trong vô vọng và vô định. Người bị bắt lại thì vào tù không có ngày ra; còn kẻ chạy thoát thì đang sống một cách bần cùng ̣(và mòn mỏi) ở hai nước láng giềng: Miên và Thái.

Ngư dân nay không còn “nhìn trùng dương hát câu no lành” như Phạm Duy đã từng mô tả. Mắt trước (mắt sau) họ lấm lét cứ như là kẻ trộm, dù đang thả lưới trong hải phận Việt Nam. Đã thế, họ lại còn “được” Đảng và Nhà Nước “trao cờ tổ quốc để vươn khơi bám biển” thay cho … lực lượng Hải Quân!

Ngay cả những vị Đại Biểu Quốc Hội (cơ quan quyền lực cao nhất nước) cũng chỉ là những kẻ ngồi ké né ở nghị trường – với cái quốc tịch thứ hai dấu kín trong túi áo, cùng với tâm trạng thấp thỏm – và sẵn sàng để chuồn, ngay khi có biến!  

Giới lãnh đạo cũng thế. Cũng đều hối hả vơ vét  (“không từ một thứ gì”) như những kẻ đang trên một chuyến tầu vét cuối cùng. Thái độ nhấp nhổm của mọi giới “tinh hoa” khiến chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan không khỏi băn khoăn: “Đi định cư ở nước ngoài cả, đất nước này ai xây dựng đây?”


Bao giờ mà cái chế độ hiện hành còn tồn tại ở Việt Nam thì xây dựng, xem chừng, là điều bất khả. Còn có ai thiết tha chi đến một mảnh đất mà mình chỉ được quyền sống ké (hay sống tạm) thôi.


T.N.T


(*) Dù chào đời tại Sài Gòn trước Hiệp Định Geneve, tôi vẫn “có mặt” trong đoàn người di cư từ Bắc vào Nam hồi 1954. Đây là chuyện hơi khó hiểu, và cũng hơi dài dòng nên xin được giải bầy sau – khi tiện dịp.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi quen Từ Hiếu Côn khi đến nhờ anh đóng sách và cắt xén cho gọn gàng cuốn Mặt Trận Kiện Báo Chí của tôi viết và xuất bản cuối năm 1995. Anh có một cái máy làm công việc này- công đoạn cuối của việc in thành một cuốn sách phát hành trong cộng đồng Việt Nam thời thập niên 80, 90 ở San Jose.
Có lần, đang nằm võng giữa rừng thì Liêm móc trong ba lô ra tờ báo Quân Đội Nhân Dân, rồi chỉ cho tôi xem một đoạn thư tình của một anh lính bộ đội gửi (từ chiến trường phía Tây) về cho người yêu bé bỏng ở hậu phương Hà Nội: “Anh muốn cài lên tóc em một cành hoa thốt nốt...” Hai thằng cười lăn, cười lộn thiếu điều muốn đứt võng luôn. Hơn một phần tư thế kỷ đã qua, tôi không còn nhớ được tên tác giả bức thư tình (“bất hủ”) nói trên nhưng vẫn còn giữ nguyên ấn tượng về sự liều lĩnh (quá cỡ) của tác giả.
Đối với Phật Giáo, đạo Phật là đạo từ bi cứu khổ, bình đẳng và không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, mầu da và giới tính. Với nguyên tắc thương yêu tất cả mọi loài chúng sinh, Phật giáo không chủ trương xét xử, không chống đối hay chỉ trích người khác, đơn thuần chỉ dựa trên tính chất của người đó, vì điều này được xem như là một sự phê phán thiên vị và không công bằng. Vì thế, xuyên qua những lời giảng dạy của Đức Phật, chúng ta không thấy Ngài phê phán những người đồng tính về phương diện đạo đức…
Ngày 31-12-2019, ngày thế giới ghi nhận dich bịnh Covid-19 đã hiện hữu tại thành phố Vũ Hán-với 11 triệu dân, thủ phủ của tỉnh Hồ Bắc của Trung Quốc. Kể từ ngày đó, dịch bịnh Covid-19 đã tác động toàn diện thế giới, làm thay đổi trật tự sẵn có từ địa Chính trị đến Kinh tế.
Dó đó, nếu nhìn bài học Dân chủ Mỹ qua lăng kính cuộc bầu cử Tổng thống năm 2020, và đọc lại những lời kêu gọi nhân dân Mỹ đoàn kết và hàn gắn những khác biệt của Tổng thống-đắc cử Joe Biden thì lãnh đạo Việt Nam có biết xấu hổ không khi nhìn lại những gì họ đã làm đối với nhân dân Việt Nam Cộng hòa sau ngày 30 tháng 4 năm 1975?
Làm thế nào để thoát qua dịch cúm này, hãy làm theo lời bác sĩ chỉ dẫn: rửa tay thường xuyên, không đến chỗ đông người, đeo mặt nạ, ăn uống điều độ, cẩn thận, tập thể dục thể thao. Lạc quan là yếu tố quan trọng để sống. Sống vui vẻ, lòng mình ngay thẳng, không thù oán ai, ngủ ngon và yêu đời.
Đại dịch COVID-19 sẽ để lại cho nền kinh tế Hoa Kỳ với một thị trường lao động đầy thương tổn. Hơn 20 triệu việc làm đã mất trong cuộc khủng hoảng và chỉ một nửa đã tìm lại được việc. Không có gì đáng ngạc nhiên khi tình trạng mất việc đã gây ảnh hưởng đặc biệt đến những công nhân có hoàn cảnh khó khăn và ít học.
Như mọi buổi sáng, qua khung cửa sổ trên lầu, tôi âm thầm nhìn những sinh hoạt hằng ngày của nhiều người láng giềng thầm lặng, nơi hai góc đường của một khu vực dân cư rất yên tĩnh. Bất ngờ, điện thoại reng. Tôi nhận ra giọng của chị Phương Nga – cháu gọi giáo sư Lê Văn Đào bằng cậu – từ Canada.
Đêm 10 tháng 12 năm 2020 con gái Hoàng Oanh Carina từ Úc châu gọi điện cho bác Lộc. Bố con mất rồi. Ngày nay đang dịch Covid 19 làm sao có lễ nghi quân cách. Sáng thứ sáu 11 tháng 12 tôi gửi khẩn cấp lá cờ vàng cho nhà quàn để phủ lên di hài người anh hùng mỏi mệt của khóa 5 phụ Vì Dân học tại trường Võ bị Đà Lạt. Xin các bạn cùng khóa Vì Dân 1955 tại Thủ Đức và Đà Lạt hiện chẳng còn bao nhiêu, hãy đốt một nén hương tưởng niệm cho Hoàng Tích Hữu Ái.
Bắt đầu tuần này, hầu hết cư dân California lại phải ở nhà cho đến ngày 5/1/2021. Đây là lần thứ hai lệnh cấm túc – Stay At Home – được ban hành để phòng lây lan Covid-19 trên diện rộng. Sau Lễ Tạ ơn 26/11 chính quyền và giới chức y tế quan ngại số ca nhiễm và người nhập viện sẽ tăng vì dân chúng chủ quan, dù đã được khuyến cáo không nên về thăm gia đình hay tụ họp mừng lễ. Nhiều người dường như không nghe lời khuyến cáo nên một tuần sau kỳ nghỉ số nhiễm Covid-19 tăng vọt trên toàn nước Mỹ. Giới chức y tế quan ngại nhất là người phải vào bệnh viện cũng tăng nhanh, số giuờng cấp cứu ICU (Intensive Care Unit) không có đủ để đáp ứng nhu cầu trong những ngày mùa đông trước mặt. Hôm Lễ Tạ ơn, gia đình tôi cũng dự dịnh xum họp anh em, con cháu như mọi năm, nhưng sẽ làm ngoài vườn sau vào giờ trưa, không quá 20 người và trong vòng hai tiếng đồng hồ, như khuyến cáo của chính quyền tiểu bang và quận hạt. Nhưng rồi các em nói thôi, vì không biết thời tiết ngày đó sẽ ra sao.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.