Hôm nay,  

Bộ Râu Xồm, Tư Bản Của «Mác»

8/6/202114:25:00(View: 3615)
Đàn ông là phải có râu «Nam tu nữ nhũ» như sách đã dạy. Khoa học lý giải râu là biểu hiện sức mạnh và từ đó phát xuất sự ham muốn chiếm đoạt nhưng không vì thế mà râu trở thành môt thứ vũ khí chết người. Râu của người Á châu khác với râu của người Âu châu, cả về cách để râu, chăm sóc râu. Theo kinh nghiệm, nhìn râu, người ta có thể xét đoán về người. Như người cương nghị, người vui tánh, người có máu … Riêng người cộng sản có râu hay không râu, râu tốt hay xấu, đều có liên hệ ít nhiều đến diễn tiến của phong trào cộng sản và số phận người lãnh đạo. 

Râu của lãnh đạo tôn giáo

Đấng Christ và các vị Tông đồ vì gốc do thái nên giữ giới luật theo Moise không được phép cạo râu. Để râu là cách tôn trọng mình được Thượng Đế tạo ra. Ngài thương mà tạo ra người đàn ông có bộ râu. Cũng vì kính trọng Thượng Đế mà con người không được phép xăm mình, xỏ tai, xỏ mũi, cắt tay chơn, … Con người là thiêng liêng và là sản phẩm do Thượng Đế tạo ra!

Với người Công giáo, râu của tăng lữ là vấn đề đứng đắn và có tánh cách tiêu biểu. Râu có một lịch sử dài. Giáo Hoàng không râu, mặt mày nhẵn nhụi, xuất hiện vào thế kỷ 18, sau nhiều do dự. Trước kia bắt buộc, rồi nhiều lần hủy bỏ, râu khi tượng trưng cho sự thánh thiện, khi lại là dấu ấn tội lỗi. Số phận râu trôi nổi theo lớp sóng phế hưng của lịch sử Giáo hội. 

Giáo Hoàng Innocent XII (thế kỷ XVII), nổi tiếng là người quyết liệt chống lại phe cánh «gia thế» cầm quyền trong Giáo hội, là vị Giáo Hoàng cuối cùng có râu, ria mép và cả chùm râu lún phún dưới cằm. Thật ra, Giáo Hoàng nhiều râu cuối cùng phải là Jules II. Như vậy, giáo dân từ hơn 350 năm đến nay không còn Giáo Hoàng có râu nữa!

Với tu sĩ Công giáo, râu chiếm một địa vị quan trọng trong kinh thánh Do thái. Cắt râu một người đàn ông là một cử chỉ sỉ nhục. Cạo râu hay nhổ râu là dấu hiệu tang tóc. Để cho người nào đó đùa giỡn với bộ râu của mình, không tránh khỏi bị coi là kẻ điên. Cắt râu hay tỉa râu cho giống một kiểu nào đó của dân chúng thế tục, phải bị giáo hội ngăn cấm và trừng phạt.

Như đã nói, ở người Công giáo, râu có khi được khuyến khích, có khi bị cấm. Ngay cả Đấng Christ là người có râu và nhiều râu nhưng có khi Ngài xuất hiện không có râu. Nhiều Linh mục trong Giáo hội khi có râu, lúc không râu. Nên rất khó có một kết luận dứt khoát ai phải có râu, ai không,và lúc nào, ở đâu?

Người Chánh thống giáo, người Sikht và Hồi giáo, hàng chức sắc đều để râu vì râu đối với họ là biểu hiện trí tuệ và sự kính trọng. Râu là tượng trưng và cho phép tinh thần hội nhập với tâm, tư tưởng với hành động, lý thuyết với thực hành. Nên những người này không có quyền cắt tóc, cạo râu vì đó là dấu hiệu tuân thủ luật trời.

Cắt tóc cạo râu là đánh mất đi một phần thân thể của Trời ban cho và người không râu là kẻ phản đạo. Chức sắc lãnh đạo tôn giáo phải có nhiều râu và râu phải dài, phù hợp với địa vị của vị chức sắc. Oussama Ben Laden có vai trò tối quan trọng trên tầm vóc quốc tế nhưng người Hồi giáo lấy làm tiếc bộ râu của ông quá ngắn và không đủ rậm cho tương xứng với địa vị của ông. Phải chăng vì vậy mà ông chết sớm và chết thảm?

Để râu xồm xoàm của người Hồi giáo như ta thấy ngày nay là do một tập tục có từ lâu đời ở phương Đông. Người Ai-cập (Egyptien), người Babylonien, người Hi-lạp (Grec), người Do thái đều tranh nhau về bộ râu của ai dài, rậm, đẹp. Ở thế kỷ thứ VII, một người Do thái tốt, có tiếng tâm, phải là người có bộ râu đẹp.

Nhà Tiên tri Mohamed để râu là theo tập tục lâu đời của địa phương.

Ngày nay, người Hồi giáo để râu là biểu tượng của Hồi giáo kháng chiến. Có tính bắt buộc. Vì đó là trở về với Allah! Và râu của lãnh tụ ở một số khu vực được nhuộm màu đỏ hoe vì theo sự tin tưởng của những người này thì Mohamed rất thích bộ râu màu đỏ.

Tuy nhiên luật vẫn có ngoại lệ. Thủ lãnh của Mặt trận Hồi giáo võ trang thành lập năm 1991, Ali Belhadj, lại không có râu. Sau này, Ali Belhadj trở thành thần tượng của lực lượng thánh chiến Algérien. Ali Belhadj còn là nhà truyền giáo nổi tiếng ác ôn. Có lẽ vì vậy mà Ali không cần có râu vẫn đủ cho mọi người thấy nam tính và bề thế của mình?


Bộ râu xồm, tư bản của «Mác»

Trong giới đầu não cộng sản, trong những ngày đầu, phần đông đều có râu, với nhiều kiểu khác nhau. Tổ sư Các Mác (Karl Marx) có bộ râu xồm rất đặc biệt, dày đặc. Lê-nin để râu mép. Staline cũng râu mép. Nhưng tới Khrouchtchev lại không có râ . Theo thời gian, tuổi đời cộng sản càng cao, càng ít người lãnh đạo có râu. Không biết có liên hệ nào trong hiện tượng này hay không?


Lúc trẻ, khi cùng với Friedrich Engels viết «Bản Tuyên ngôn Cộng sản», Mác đã có bộ râu rậm rạp nhưng Engels đâu phải chịu thua. Ông cũng là tay râu xồm. Ngoài ra, khi hai người tình cờ gặp nhiều lãnh tụ hay lý thuyết gia tả khuynh khác, tất cả cũng đều có râu và râu đẹp.

Hai ông gặp Pierre -Joseph Proudhon, khuynh tả (người Pháp, ký giả, nhà xã hội học, kinh tế gia, triết gia chánh trị và đặc biệt hơn, là người mở đầu chủ thuyết vô chánh phủ ở Pháp, trí thức lớn duy nhứt thật sự xuất thân từ giới thợ thuyền Pháp) lại cũng là người có râu đẹp, rậm, chăm sóc kỹ. Proudhon vẫn cho rằng đàn bà chẳng may xấu xí chỉ vì không có râu tuy họ rất thông minh và nhạy bén. Khi Bakounine, lãnh tụ Quốc tế lao động, xuất hiện không khỏi làm cho Mác và Engels kinh ngạc vì bộ râu của ông này quá đẹp và quá vĩ đại trong lúc bộ râu của Mác có tiếng là đồ sộ thì nay đã bắt đầu ngã màu thời gian rồi!

Vế sau, Mác từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác khi con gái Jenny của ông dẫn về giới thiệu với ông một người Pháp, Charles Longuet, từng tham gia «Paris Công xã», thuộc Đảng Xã hội Pháp (chủ nghĩa), có bộ ria mép, tỉa khéo léo và đầy vẻ trí thức của đất Paris. Liền đó, người con gái thứ hai Laura cặp tay một anh chàng Pháp khác, Paul Lafargue, về chào ông. Lafargue có bộ râu mép kiểu gauloise, rất Tây, dày, rậm, chăm sóc kỷ, nằm gọn trên môi trên, xuống vừa chí miệng, hai bên rũ xuống khóe miệng. Nhưng Lafargue lại mê bộ râu của 2 người bạn, Jules Guesde, người đồng sáng lập «Đảng Thợ thuyền» với ông và Jean Jaurès, người có công tranh đấu cho phe xã hội (chủ nghĩa) Pháp thống nhứt.

Cùng thời, ở Nga, Pierre Kropotkine thông báo một cuộc cách mạng tự do là người có một bộ râu rực rỡ. Nhưng khi tham gia vào cuộc xung đột giữa 2 phe bolcheviks và mensheviks thì râu của ông lại còi đi!

Cha đẻ cộng sản Nga, Gueorgui Plekhanov, để râu hàm đẹp, trong lúc đó Pavel Axelrod, phe mensheviks, thường tự hào có bộ râu xồm không thua nhà văn Léon Tolstoi. Một người cộng sản khác, có tiếng năng nổ trong giới tả khuynh, Julius Martov, có bộ râu không giống ai hết, nó như chiếc khăn quàng cổ màu đỏ hoe. Bạn thân của ông từ thời trẻ với nhau là Vladimir Ilitch Oulianov, sói đầu sớm, có lẽ do bẩm sanh, để bù lại, ông ta để ria mép màu đỏ hung, khá chăm sóc kỹ và người đời chỉ biết tên ông là Lê-nin, người sáng lập Đệ III Quốc tế và nổi tiếng gian ác.  Đồng chí với ông trong biến cố gọi là cách mạng Tháng Mười, Davidovitch Trotski, khác hơn ông vì có mái tóc rậm đen, nhưng ông ấy vẫn cố để mọc ra vài sợi râu dưới cằm.

Các đồng chí Đệ IV của Trotski, Grigori Zinoviev, trái lại không để râu, vì phản kháng truyền thống gia đình Do thái, nhưng Kamenev có râu đẹp. Cả hai đều bị tên hung thần Staline, thuở nhỏ cùng bạn thân với nhau, có tên là Koba sát hại. Tên Staline lúc còn trẻ, trước khi được Lê-nin kết nạp nhờ thành tích du đãng và ăn cướp, để râu rậm rạp theo kiểu băng đảng thảo khấu ở Caucase. Nhưng khi về với Lê-nin, anh chàng cạo mặt sạch sẽ, chỉ chừa bộ ria mép và để công o bế khá tươm tất. Khi hoạt động cho Lê-nin, Staline đánh cướp ngân hàng, làm được một vố to, lập thành tích dâng  cho đảng và nhờ đó, được Lê-nin tin dùng, kế nghiệp Lê-nin. Nắm đảng, Staline chi viện và huấn luyện Mao, lực lượng võ trang của Mao, để đưa cách mạng cộng sản Tàu lên nắm quyền năm 1949. Staline và Mao do cùng bản chất gian ác và cùng cộng sản nên cả hai đã chia nhau giết cả 100 triệu nhơn dân bị họ cai trị.

Tới đây thì râu xồm của người cộng sản cấp lãnh đạo đi vào thoái trào, nhường chỗ cho giới mặt láng, mày râu nhẵn nhụi. Và cũng từ đây, cộng sản từ từ trải qua nhiều diễn tiến quan trọng.

Năm 1953, Staline chết ở Mạc-tư-khoa (Moscou). Ông cai trị độc tài tuyệt đối, không ngần ngại thanh toán nhũng ai có ý chống đối hay phê phán đường lối của ông. Qua tháng 2/1956, Nikita Khrouchtchev đọc báo cáo mật hạ bệ Staline và chủ trương sống chung hòa bình với thế giới tư bản. Tượng Staline lần lượt bị tháo gỡ, chấm dứt chế độ tôn thờ cá nhơn một cách quái gở. Qua năm sau, Hà nội ngã hẳn qua Bắc kinh, dựng lên những vụ án xét lại chống đảng nhằm thanh lọc nội bộ, cũng một thời gieo rắc kinh hoàng trong hàng ngũ đảng  cộng sản Hồ Chí Minh tay sai. Và cũng từ đây, tên lãnh tụ không râu Lê Duẩn âm thầm hạ bệ bác của hắn, biến bác thành một thứ con chi chi, ngoan ngoãn vâng  lời ngay trước Quốc hội khi bác muốn phát biểu mà phải tịt mồm. Bị đàn em hạ sát đất vì bộ râu le que của bác, thứ râu của gian thần trong hát bộ, không đủ sức độ bác.

Và cũng từ đ ây, các cấp lãnh đạo cộng sản, không còn ai có râu nữa, mà đều là thứ «mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao» cả. Và cũng từ đây, cộng sản đã thật sự thay đổi, lấy công an làm sức mạnh bảo vệ chế độ thay «nhơn dân», và lấy tiền thay chủ thuyết cộng sản.

Riêng Castro ở bên kia bờ Đại Tây dương còn giữ bộ râu xồm vì lỡ thề bao giờ cách mạng cộng sản thành công mới cạo râu. Chết mất nhưng cách mạng cộng sản vẫn chưa thành công. Và chẳng bao giờ thành công Nay ở Cuba, dân chúng hàng trăm ngàn rầm rộ xuống đường  biểu tình đòi dẹp bỏ chế độ cộng sản độc tài, thay thế bằng Tự do, Dân chủ thì có sống lại, Castro chắc chắn sẽ không bao giờ cạo râu được!


Nguyễn thị Cỏ May


Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Gặp gỡ và nói chuyện nhiều với những người thông dịch viên Afghanistan, tôi mới hiểu thêm rất nhiều về dân tộc họ và biết rằng chính phủ Afghanistan là một chính phủ tham nhũng lan tràn từ cấp thấp cho đến cấp cao, mức độ nào họ cũng có thể ăn hối lộ được, chỉ có người dân thấp cổ bé miệng là khổ. Người Mỹ biết rất rõ nhưng vẫn không làm gì hết. Bản thân chúng tôi khi ra vào đất nước này, cũng phải đóng cho những nhân viên hải quan đủ thứ tiền, mà phải bằng tiền đô la Mỹ, mệnh giá 100 đồng mới tinh, cũ hoặc dính 1 vết mực, họ không nhận và không chịu ký giấy và đóng mộc. Nói để thấy rằng chúng ta, người Mỹ, hy sinh tiền bạc, xương máu cho họ, thật không đáng chút nào. Rút ra khỏi đất nước này là đúng và là một việc phải làm ngay.
Cứ tới cuối tuần, dân Tây réo nhau xuống đường biểu tình chống chương trình chích ngừa dịch vũ hán và, tiếp theo, chống biện pháp kiểm soát có chích hay không bằng «thông hành y tế» (pass-sanitaire), tờ giấy có dấu hiệu đã chích ngừa của Cơ quan Bảo hiểm sức khỏe cấp qua Cơ quan tổ chức chích hoặc y sĩ gia đình hay dược sĩ.
Đầu năm 70, bạn đồng minh Huê kỳ quyết định bỏ rơi VNCH, không thực hiện cam kết rút quân, Việt-nam hóa chiến tranh, mặc nhiên giao Miền nam cho Hà nội. Ngày 30/04/75, quân Bắt Việt tiến vào Sài gòn, ngỡ ngàng. Dân chúng hoảng loạn bỏ chạy. Nhưng 14 năm sau thất bại nhục nhã ở Việt nam, bức tường Bá-linh bổng sụp đổ, kéo theo cộng sản Liên xô xuống hố, giúp Huê kỳ kết thúc cuộc chiến tranh lạnh làm kẻ chiến thắng.
Người Mỹ nói “Nothing is certain but tax and death” (Không ai tránh khỏi thuế và chết). Thuế mang ý nghĩa đặc biệt vì lịch sử nước Mỹ được thành hình từ ngày dân chúng thuộc địa nổi loạn chống nhà nước bảo hộ Anh Hoàng với khẩu hiệu bất hủ “Taxation without representation is tyranny” (Bị đánh thuế mà không được có đại biểu là bạo quyền.) Cho nên mỗi kỳ bầu cử đều tranh luận gay gắt về thuế má – nhưng không chỉ là cải cọ vô bổ vì khi thành luật sẽ theo đó móc từ túi tiền của mỗi người dân nhiều hay ít.
Đảng cộng sản VN cũng “khởi nghiệp” với những tuyên ngôn và khẩu hiệu nghe (tử tế) tương tự. Họ hô hào chống lại áp bức, bất công, kỳ thị … Nhờ vậy, họ vận động được quần chúng - kể cả những thành phần thiểu số, “ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng” - nổi dậy “giành lấy chính quyền về tay nhân dân.” Chả phải vô cớ mà Cách Mạng Tháng Tám vẫn được mệnh danh là “Cuộc Khởi Nghĩa Của Những Người Tay Không.” Chỉ có điều đáng phàn nàn là sau khi “những người tay không” nắm được quyền bính trong tay thì họ (tức khắc) hành xử như một đám côn đồ, đối với tất cả mọi thành phần dân tộc
Người lính Mỹ, trong nhân dáng hiên ngang, với những bước chân chắc nịch, đôi mắt nhìn thẳng và kỹ thuật tác chiến tuyệt vời. Nhưng người lính Mỹ cũng có trái tim biết rung động, biết nhớ thương, biết đau khổ như bạn và tôi. Xin đừng “thần thánh hóa” hoặc đòi hỏi những điều mà người lính Mỹ không thể thực hiện được; vì người lính Mỹ còn phải chu toàn bổ phận đối với người hôn phối, gia đình và người thân. Xin hãy nghĩ đến những trái tim tan vỡ trong mỗi gia đình, khi một người lính Mỹ gục ngã!
Như vậy, tuy không công khai, nhưng Bà Harris có quan tâm đến nhân quyền, các quyền tự do và vai trò của các tổ chức Xã hội Dân sự ở Việt Nam, một việc mà đảng và nhà nước CSVN luôn luôn chống đối và đàn áp. Tuy nhiên, tất cả báo Việt Nam, kể cả những báo “ôn hòa” như Thanh Niên, Tuổi Trẻ, Lao Động và Người Lao Động đều không đăng lời tuyên bố chống Trung Hoa của Bà Phó Tổng thống Harris.
Sau hơn một năm vất vả phòng chống Covid và kể từ khi có thuốc tiêm ngừa, nước Mỹ đang trở lại bình thường trong những điều kiện mới. Việc đeo khẩu trang và giãn cách xã hội sẽ trở thành những nét sinh hoạt trong đời sống. Bắt buộc cũng có mà tự nguyện cũng có. Từ mùa xuân năm nay nhiều tiểu bang đã bỏ những giới hạn sinh hoạt vì Covid. Riêng California, nơi có nhiều hạn chế gắt gao nhất trong công tác phòng chống, giới hạn được bỏ từ ngày 15/6 vừa qua.
Dan Rather là nhà bình luận kỳ cựu trên hệ thống CBS và là một ký giả tên tuổi của làng truyền thông Hoa Kỳ trong nhiều thập niên. Cùng với Peter Jennings của ABC và Tom Brokaw của NBC, ông thuộc về nhóm "Big Three" đầy ảnh hưởng này của nước Mỹ. Ở tuổi 89 hiện nay, ông vẫn tiếp tục dự phần vào các hoạt động truyền thông một cách thông tuệ, luôn gởi ra những thông điệp đáng suy nghĩ và lan truyền cảm hứng đến hàng triệu khán-thính-độc giả đang luôn theo dõi các bài viết, những cuộc nói chuyện cùng các cuộc phỏng vấn, trò chuyện của ông với một vài nhân vật nổi tiếng.
Trong chiến lược “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở” của Hoa Kỳ, Việt Nam là môt cưc tuy nhỏ nhưng quan trong trọng cô gắng tạo thế đa phương quyền lực (multipolarity) để phá thế đơn cưc (unipolarity) mà Trung Quốc muốn thực hiện đặt khu vực này dưới “luật chơi của Trung Quốc.” Cả đại sứ chỉ định của Hoa Kỳ Marc Evans Knapper, Bộ trưởng Quốc Phòng Lloyd J. Austin, và có lẽ Phó Tổng Thống Kamala Harris, cũng đề cập đến triển vọng nâng tầm quan hệ Việt-Mỹ từ mức “đối tác toàn diện” lên mức “đối tác chiến lược.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.