Hôm nay,  

Kinh nghiệm chiến tranh

27/11/202210:13:00(Xem: 19380)
Bình luận thời cuộc thế giới

HIMARS
Hệ thống hỏa tiễn cơ động HIMARS.

 


Cuộc chiến hiện nay tại Ukraine, chẳng cần nói nhiều, đã là một bài học rất lớn cho Hoa Kỳ, và có lẽ nó sẽ được dùng làm chuẩn mực cho những xung đột trong tương lai giữa Hoa Kỳ và các thế lực thù địch trên thế giới. So với cuộc chiến 20 năm tại Afghanistan thì sự trợ giúp của Hoa Kỳ trong cuộc chiến tại Ukraine tỏ ra vô cùng hữu hiệu. Ukraine không cần, và không muốn, quân đội ngoại bang chiến đấu cho mình chống lại cuộc xâm lăng trắng trợn của Nga. Họ không muốn lính Mỹ, lính Anh, lính Đức, lính Pháp hay bất cứ ai cầm súng thay họ. Họ muốn chính họ là kẻ chiến đấu cho quê hương, một cuộc chiến một mất một còn. Họ chỉ cần vũ khí. Có vũ khí cần thiết trong tay, họ tin tưởng một cách mãnh liệt là họ sẽ đánh bật quân đội xâm lăng Nga ra khỏi đất nước họ.

 

Cho đến thời điểm cuối năm 2022, sau hơn 10 tháng từ ngày Nga xua đại quân sang xâm lấn biên thùy Ukraine, mọi bằng chứng trên chiến trường cũng như mặt trận kinh tế và công luận quốc tế cho thấy Nga đang sa lầy và càng lúc càng thấy viễn ảnh chiến bại phủ chụp lên điện Kremlin. Để đạt chiến thắng sau cùng, cho dù là chiến thắng quân sự hay thương thuyết ngoại giao, đòi hỏi sự quyết tâm và tinh thần hy sinh cao độ của quân dân Ukraine, nhưng điều hiển nhiên là những gì Hoa Kỳ và đồng minh NATO đang làm – không gửi quân sang chiến đấu mà chỉ viện trợ những loại vũ khí tối tân – là phương cách tốt nhất trong cuộc chiến này. Nó sẽ là mẫu mực cho những xung đột tương lai, mà các chiến lược gia Mỹ chắc chắn đang điều nghiên để thiết kế một đối sách mới.

 

Mặc dù ảnh hưởng địa chính trị của Hoa Kỳ hiện nay chưa chắc đã suy yếu trầm trọng như nhiều quan sát viên đánh giá, nhưng sự suy thoái kinh tế thì có thật. Sức mạnh kinh tế cùng với sức mạnh kỹ thuật, công nghệ, nếu suy thoái, sẽ kéo theo sự suy thoái quân sự, và đó cũng là một lý do nữa để không sử dụng quân đội đi chiến đấu bên ngoài biên thùy. Từ lâu những nhà làm quyết sách của Hoa Kỳ vẫn tin tưởng là nếu muốn có kết quả tốt trong những xung đột trên thế giới thì phải gửi quân đội sang can thiệp và giải quyết tận nơi. Nhưng sự thật cho thấy kết quả của chính sách này thường đi ngược lại những điều tiên liệu trong kế hoạch. Từ chiến tranh Việt Nam cho đến Iraq và Afghanistan, mọi bằng chứng quy chiếu cho thấy Hoa Kỳ càng can thiệp nhiều bằng phương cách gửi quân sang chiến đấu càng thảm bại, và cuối cùng phải tháo chạy trong nhục nhã, chưa kể thiệt hại nhân sự và tốn kém những khoản kinh phí khổng lồ. Rồi xã hội bị phân hóa do những cuộc phiêu lưu vô bổ như vậy cũng để lại chấn thương cho quốc gia, và vết thương đó âm ỷ trong nhiều thập kỷ, nếu không muốn nói là mãi mãi.

 

Cuộc triệt thoái của lực lượng chiến đấu Mỹ ra khỏi Kabul năm 2021 với những thông tin và hình ảnh xấu xí đến độ kinh hoàng là lời cáo buộc mạnh mẽ nhất cho rằng chính sách này của Mỹ hoàn toàn sai, cần phải loại bỏ. Sau hai mươi năm đổ vào hàng trăm tỉ đô la và một con số không nhỏ quân nhân và dân sự bỏ mình, cuộc chiến Afghanistan là một sự phí phạm chưa từng thấy, và đau lòng hơn cả là sự hy sinh máu xương của những người chiến đấu trong cuộc chiến ấy, tất cả bay vào hư vô, không một kết quả nào để lại, thậm chí một phần thưởng tinh thần nhỏ nhoi cũng không.

 

Mặc dù trong thời gian đầu, vào năm 2001, sự can thiệp của Hoa Kỳ vào chiến cuộc Afghanistan có được sự hỗ trợ và hậu thuẫn của đa số các phe nhóm người Afghan, nhưng chẳng bao lâu lực lượng quân đội Mỹ đã phải gánh vác gần như mọi chiến dịch bình định. Công cuộc thiết lập một quân đội Afghan tương đối mạnh đủ để đối phó với phe du kích Taliban đã thất bại, vì quân đội này thường tỏ ra ỷ lại vào quân đội Hoa Kỳ. Không có tinh thần độc lập, thiếu ý chí chiến đấu, mang nặng tinh thần bộ lạc đã khiến họ mau chóng buông súng đầu hàng trước quân địch, để lại một núi vũ khí trị giá 80 tỉ đô la của Hoa Kỳ viện trợ lọt vào tay Taliban.

 

Điều phi lý là Hoa Kỳ thường hay quên bài học lịch sử, mà bài học lịch sử lớn nhất chính là Việt Nam. Tại Việt Nam, Hoa Kỳ đã tự hủy những cố gắng của mình trong công cuộc giúp miền Nam Việt Nam  chống lại làn sóng Cộng sản, họ đẩy ra ngoài lề quân lực Việt Nam Cộng Hòa và thường xuyên có những hành động ngầm phá hoại chính nghĩa của chính quyền miền Nam. Thay thế người lính miền Nam chiến đấu, người Mỹ tin tưởng rằng họ có thể đạt được những mục tiêu lớn trong một thời gian ngắn qua giải pháp chiến tranh, nhưng họ sai lầm vì không tiên liệu được những tình huống bất lợi phức tạp do sự có mặt của quân đội Mỹ khắp nơi.

 

Trong khi đó, thay vì gửi quân sang chiến đấu, Hoa Kỳ sử dụng những phương tiện có sẵn trong tay về tài chính, kỹ thuật cao, tình báo, thậm chí điều hợp ngoại giao, như đang làm ở Ukraine, thì kết quả tỏ ra là vô cùng hữu hiệu. Hoa Kỳ giúp Ukraine chẳng những chống đỡ được những trận đánh lúc ban đầu mà còn đang trên đà chiến thắng đẩy lui quân xâm lăng ra khỏi đất đai bị chiếm đóng. Với những loại vũ khí tối tân từ hệ thống hỏa tiễn cơ động HiMARS (High Mobility Artillery Rocket Systems) với tầm bắn cả trăm kílô-mét cho đến quân nhu quân dụng, súng nhỏ do Hoa Kỳ cung cấp, quân đội Ukraine đã chiến đấu rất dũng mãnh và hiệu quả. Quân đội Ukraine còn được Hoa Kỳ và đồng minh NATO huấn luyện bảo trì súng ống, chiến cụ nặng. Tình báo do Hoa Kỳ cung cấp nhờ một giàn vệ tinh nhân tạo tân tiến bay trên thượng tầng khí quyển cũng giúp Kyiv có những thông tin chính xác để giáng những đòn chí tử lên quân đội Nga.

 

Một sự kiện khá ngạc nhiên khác là: với sự trợ giúp của Hoa Kỳ vào cuộc chiến Ukraine, NATO chỉ trong một thời gian ngắn đã có những bước tiến hồi sinh mạnh mẽ, và có thêm hai thành viên mới, Thụy Điển và Phần Lan. Đây là một cú đánh ngược bất ngờ vào mặt Putin, kết quả của một tính toán sai lầm từ tay cựu sĩ quan tình báo KGB.

 

Tình hình hiện nay ở Ukraine đang diễn ra theo chiều hướng vô cùng bất lợi cho Putin, đến nỗi nhiều người ở phía bên này đang kêu gọi Ukraine hãy ngồi vào bàn đàm phán tìm giải pháp hòa bình, chấm dứt chiến tranh, hầu tránh cho Putin bị mất mặt.

 

Đặt Ukraine bên cạnh Afghanistan, người ta thấy rõ ràng đối sách của Hoa Kỳ sẽ là như thế nào trong tương lai. Hoa Kỳ nên tránh tối đa sự can thiệp trực tiếp vào những xung đột trên thế giới, và chỉ nên hỗ trợ những dân tộc-quốc gia nào thực sự quyết tâm chiến đấu cho mình, cho quốc gia mình. Dân tộc Ukraine đang trên đà chiến thắng cuộc chiến sinh tử của họ với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, nhưng HiMARS sẽ chẳng làm được gì nếu quân dân Ukraine không nhất trí quyết một lòng đánh giặc cứu quê hương. Vận mệnh quốc gia Ukraine nằm trong tay người dân, người lính Ukraine, không ở trong tay bất cứ người nào khác.

 

Một xung đột lớn trong tương lai có khả năng xảy ra trên thế giới là: Trung quốc xâm chiếm đảo Đài Loan. Chiếm Đài Loan luôn luôn là một trong những ưu tiên của bất kỳ Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung quốc nào chứ không riêng gì Tập Cận Bình. Nó nằm trong quốc sách của đất nước này từ lâu và sẽ không thay đổi. Bài học Afghanistan và Ukraine chắc chắn nằm trong kế hoạch của các chiến lược gia Hoa Kỳ khi điều nghiên phương cách chống trả Trung quốc một khi quốc gia này quyết định gửi hạm đội và đại quân sang đánh Đài Bắc.

 

Như thấy trong cuộc chiến Ukraine, các loại vũ khí của Hoa Kỳ chế tạo có hiệu năng hơn nhiều so với vũ khí của các cường quốc quân sự khác. Cộng với khả năng tình báo hỗ trợ bởi vệ tinh do thám, Hoa Kỳ sẽ đóng vai trò chủ yếu cung cấp phương tiện cho quân dân Đài Loan bảo vệ lãnh thổ mình một khi chiến tranh xảy ra. Và không cần gửi một người lính nào sang chiến đấu.

 

– Trịnh Khải Nguyên-Chương

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
Gần đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố áp dụng chính sách áp thuế 25% đối với ô tô nhập khẩu vào Mỹ, trước đó Trump cũng đã áp đặt biện pháp trừng phạt chung đối với Liên Âu, Canada, Mexico và Trung Quốc, nhưng lại tạm hoãn trong 30 ngày để cho Canada và Mexico thương thuyết. Các biện pháp bất nhất này gây nhiều hoang mang cho chính giới và doanh nghiệp các nước đối tác.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.