Hôm nay,  

Di sản của Henry Kissinger

08/12/202300:00:00(Xem: 4681)
Henry Kissinger  
Lời người dịch: Việc ra đi của Cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger là một đề tài được thảo luận sôi nổi trên các phương tiện truyền thông quốc tế.
  
Nhưng đối với người Việt miền Nam, việc Henry Kissinger ký kết Hiệp định Paris 1973 phải được xem là một sai lầm nghiêm trọng vì Bắc Việt đã lừa đảo được Henry Kissinger khi chiếm trọn mọi ưu thế trên chiến trường và nghị trường. Kết quả này dẫn đến việc Bắc Việt vi phạm Hiệp định và thống nhất lãnh thổ bằng quân sự.
  
Theo nội dung Hiệp định, Bắc Việt và MTGPMN có
ba thắng lợi chính: Một là toàn bộ binh sĩ Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam; hai là công nhận sự hiện diện của 140.000 quân chính quy QĐNDVN ở miền Nam và chính phủ ”ma” MTGPMN; ba là quy chế khu phi quân sự sẽ không đuợc luật quốc tế công nhận và không ai sẽ can thiệp khi vi phạm.
  
Dù tiên đoán Hà Nội không tôn trọng Hiệp định và miền Nam sụp đổ, tại sao Kissinger không chuẩn bị các biện pháp khác nhằm ngăn chặn các hậu quả tàn khốc này? Đây là câu hỏi mà mọi người Việt miền Nam đặt ra để nguyền rủa Kissinger là phản bội VNCH và xem nhẹ các giá trị sống còn của miền Nam, vô đạo đức không thể tha thứ.
  
Kissinger luôn né tránh biện minh trách nhiệm đạo đức cá nhân và những sai lầm trong Hiệp định mà ngược lại đổ trách nhiệm cho chính quyền và dân chúng miền Nam là những người có quyền tự do tự định đoạt số phận của mình. Về trách nhiệm của phía Mỹ, ông dẫn chứng là Nixon bị buộc phải từ chức sau vụ Watergate và Quốc hội còn không muốn tiếp tục viện trợ cho VNCH.
  
Gần đây, có các cáo buộc mới về Henry Kissinger khi đơn phương chấp thuận cho phép binh sĩ Bắc Việt ở lại miền Nam và không thảo luận vấn đề này trước với Richard Nixon và chính quyền VNCH.  
  
Năm 1971 quan điểm công khai của Nixon là cả hai lực lượng Hoa Kỳ và Bắc Việt phải cùng lúc rút ra khỏi miền Nam, để cho người Việt Nam tự giải quyết vấn đề hòa bình.
  
Do đâu mà Henry Kissinger qua mặt  Richard Nixon và VNCH là một vấn đề còn cẩn thảo luận trong chi tiết. Hiện nay, các văn kiện của Henry Kissinger còn bảo mật và ký gởi tại Quốc hội Mỹ. Theo di chúc của ông, các tài liệu này sẽ được tự do tham khảo năm năm sau ngày ông qua đời.
 
***
 
Sự ra đi của nhà tư tưởng và thực hành xuất sắc về chính sách đối ngoại của Mỹ đánh dấu một kỷ nguyên kết thúc. Trong suốt sự nghiệp lâu dài và có ảnh hưởng phi thường của mình, Henry Kissinger đã xây dựng một di sản mà người Mỹ sẽ khôn ngoan chú ý trong kỷ nguyên mới của nền chính trị cường quốc và sự xáo trộn trong toàn cầu.
  
Thật khó để tưởng tượng rằng thế giới mà không có Henry Kissinger, không chỉ đơn giản vì ông sống đến 100 tuổi, mà vì ông chiếm một vị trí có ảnh hưởng và đôi khi chế ngự trong chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của Mỹ trong hơn nửa thế kỷ.

Sinh ra ở Đức năm 1923, Kissinger di cư sang Hoa Kỳ năm 1938, trở về Đức trong khi phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ, và là một sinh viên và sau đó là giảng viên tại Đại học Harvard. Ông đã phục vụ tám năm trong chính phủ Hoa Kỳ, đầu tiên là cố vấn an ninh quốc gia, và sau đó là ngoại trưởng (giữ cả hai vai trò đồng thời từ năm 1973 đến năm 1975) dưới thời Tổng thống Richard Nixon và Gerald Ford.
  
Những thành tựu của ông trong lúc tại chức có nhiều và rất đáng kể. Để bắt đầu, đó là sự mở cưa cho Trung Quốc, một cơ hội được tạo ra bởi sự chia rẽ Trung Quốc -Xô Viết, nhưng được nhận ra và sau đó được Kissinger và Nixon khai thác để sử dụng làm đòn bẩy đối với Liên Xô (đối thủ chính của Mỹ vào thời điểm đó). Việc mở cửa ngoại giao đó không chỉ chấm dứt nhiều thập niên thù địch giữa Mỹ và Trung Quốc. Nó cũng tạo ra một công thức để tạo ra sự khác biệt về Đài Loan, đặt nền tảng cho sự chuyển đổi kinh tế của Trung Quốc và thiết lập một mối quan hệ lâu dài và quan trọng hơn bao giờ hết. Ngoài ra còn có sự hoà hoãn: nới lỏng các căng thẳng với Liên Xô. Kissinger và Nixon (mối quan hệ thân thiết của họ là một lời giải thích cho ảnh hưởng của Kissinger) đã cấu trúc mối quan hệ giữa hai siêu cường của thời đại. Điều đó cho phép các cuộc đàm phán về kiểm soát vũ khí hạt nhân, các quy tắc về lộ trình quản lý các xung đột liên quan đến từng đồng minh riêng biệt của họ và hội nghị thượng đỉnh thường xuyên, tất cả đều giúp giữ cho Chiến tranh Lạnh còn lạnh khi tình trạng có thể trở nên nóng hoặc tệ hơn là dẫn đến việc leo thang hạt nhân.
  

Sau đó là Trung Đông. Sự tương đồng so với ngày nay rất đáng chú ý, vì chính xác là cách đây 50 năm trước, Ai Cập và Syria đã khiến Israel mất kiểm soát với một cuộc đột kích giống như Hamas đã làm vào ngày 7 tháng Mười. Kissinger và Nixon đảm bảo rằng Israel có sự hỗ trợ quân sự nếu cần thiết; nhưng họ cũng gây áp lực buộc Israel không lạm dụng quá mức lực lượng quân sự, vì điều đó có thể kéo Liên Xô vào cuộc chiến hoặc loại bỏ triển vọng ngoại giao sau đó.  Chính sách ngoại giao “con thoi” cá nhân của Kissinger  đã giúp mang lại một lệnh ngừng bắn và tách biệt các lực lượng vũ trang đối lập, tạo tiền đề cho hoà ước Ai Cập-Israel  do Tổng thống Jimmy Carter đàm phán.
  
Những thành tựu này, bất kỳ một trong số đó sẽ tạo thành một di sản quan trọng cho một ngoại trưởng, chứng minh nhiều yếu tố trung tâm trong phương cách của Kissinger đối với các vấn đề của thế giới. Ông chấp nhận ngoại giao, để chắc chắn; nhưng đó là một chính sách ngoại giao hoạt động trong bối cảnh cân bằng quyền lực thuận lợi. Đó không chỉ là ngoại giao, mà là ngoại giao với sự kiềm chế.
  
Kissinger có khuynh hướng bảo thủ. Ông ưu tiên hoá trật tự, có nghĩa là, những nỗ lực của ông để tránh chiến tranh được ưu tiên hơn các mục tiêu có nhiều tham vọng hơn đang được thúc đẩy bởi những người khác mà họ muốn biến đổi các quốc gia hoặc áp đặt hòa bình bằng công lý. Sự nhấn mạnh của ông là thẳng thắn về mối quan hệ giữa các quốc gia hơn là chính trị bên trong họ. Như Kissinger thấy vấn đề này, công việc chính của chính sách đối ngoại Mỹ là định hình chính sách đối ngoại của các nước khác.
  
Người ta tìm thấy những chủ đề này trong nhiều cuốn sách và bài báo của ông, từ luận án tiến sĩ và hồi ký của ông đến những suy tưởng của về vũ khí hạt nhân, các liên minh, nền ngoại giao và gần đây hơn, trật tự thế giới, Trung Quốc và trí tuệ nhân tạo. Ngay cả khi Kissinger chưa bao giờ phục vụ trong chính phủ, ông vẫn sẽ gây ảnh hưởng sâu xa đến chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ thông qua sức mạnh của các ý tưởng và tài hùng biện trong các bài viết.
  
Tất nhiên, hiện nay có những vị ngoại trưởng Mỹ vĩ đại khác, chẳng hạn như George Marshall, Dean Acheson và James Baker. Nhưng không người nào có thể so sánh với Kissinger khi vừa là một tác nhân vừa là một nhà phân tích. Ông là học giả và hành giả xuất sắc trong thời đại của mình.
  
Nhưng điều này không có nghĩa là Kissinger đã không phạm phải một số điều sai lầm. Ông chắc chắn đã làm, như nhiều người gièm pha và chỉ trích ông nhanh chóng chỉ ra.
  
Các chính sách gây tranh cãi nhất mà ông có tham gia liên quan đến chiến tranh Việt Nam. Giới chỉ trích cuộc chiến đổ lỗi cho Kissinger đã kéo dài nó, và mở rộng sang Campuchia, vào thời điểm mà nhiều người đánh giá nó là không thể thắng và không đáng để chiến đấu. Nhưng ông cũng bị chỉ trích từ những người ủng hộ chiến tranh, do vai trò của ông trong việc đàm phám chấm dứt cuộc chiến. Các điều khoản của "hòa bình" cho phép Bắc Việt thắng được miền Nam trong vòng hai năm.
 
Kissinger cũng đóng một vai trò gây tranh cãi trong các biến cố năm 1971, khi ông đứng về phía Pakistan (một đồng minh của Mỹ đã giúp đỡ bước dọn đường để đột phá với Trung Quốc) bất chấp các báo cáo rằng chính phủ nước này đang thực hiện một chiến dịch đàn áp quy mô, hoặc điều mà nhiều người đánh giá là một cuộc diệt chủng, như ở Bangladesh ngày nay. Cuối cùng, Kissinger vẫn bị chỉ trích dữ dội vì vai trò của ông trong việc cố gắng lật đổ chính phủ ở Chile được bầu cử dân chủ là Salvador Allende, do khuynh hướng ý thức hệ.
  
Kissinger thỉnh thoảng cố gắng bác bỏ những phàn nàn này khác về các chính sách của ông. Nhưng những nỗ lực của ông không hoàn toàn thuyết phục, bởi vì một số phê bình chính đã có giá trị. Tuy nhiên, điểm quan trọng hơn là những thành tựu của Kissinger rất lớn, và lớn hơn nhiều so với những thất bại của ông.
  
Kết quả là một di sản lâu dài, xứng đáng về sự nghiêm túc về thế giới và về sự nguy hiểm của một chính sách đối ngoại của Mỹ được xác định bởi hoặc là dưới tầm với (chủ thuyết biệt lập) hoặc vượt quá tầm với (cố gắng chuyển đổi các tình huống hoặc chế độ chỉ có thể được xử lý, tốt nhất). Đó là một di sản mà người Mỹ sẽ khôn ngoan để chú ý khi họ một lần nữa phải đối mặt với một thế giới được đánh dấu bởi nền chính trị do các cường quốc và sự hỗn loạn ngày càng tăng.
 
 
– Richard Haass
Đỗ Kim Thêm dịch
 
Richard Haass, Chủ tịch hồi hưu của Council on Foreign Relations và tác giả  The Bill of Obligations: The Ten Habits of Good Citizens (do NXB Penguin Press ấn hành năm 2023) và Home & Away, bản tin Substack phát hành hàng tuần.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tây Bắc hay Tây Nguyên thì cũng chừng đó vấn đề thôi: đất đai, tôn giáo, chủng tộc… Cả ba đều bị nhũng nhiễu, lũng đoạn tới cùng, và bị áp chế dã man tàn bạo. Ở đâu giới quan chức cũng đều được dung dưỡng, bao che để tiếp tục lộng quyền (thay vì xét sử) nên bi kịch của Tây Nguyên (nói riêng) và Cao Nguyên (nói chung) e sẽ còn dài, nếu chế độ toàn trị hiện hành vẫn còn tồn tại...
Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.” “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!
Việt Nam bước vào năm Giáp Thìn 2024 với gánh nặng tham nhũng và một đội ngũ “không nhỏ” cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức lối sống. Đó là cảnh báo của người đứng đầu đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng, trong cuộc phỏng vấn đầu năm của Thông Tấn Xã Việt Nam...
Từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Triết gia Mạnh Tử (372-289 BC) của Trung Hoa đã nói rằng, “Dân là quý, thứ đến đất nước, rồi tới vua.” Điều đáng nói là Mạnh Tử là người đi theo học thuyết của Nho Gia vốn chủ trương vua là con ông Trời (Thiên tử) được sai xuống nhân gian để trị quốc an dân, vậy mà cũng không thể phủ nhận vai trò quan trọng, nếu không muốn nói là tối quan trọng của người dân. Thời hiện đại, công pháp quốc tế đã nêu ba yếu tố chính hình thành một quốc gia: người dân, lãnh thổ và chính quyền. Trong đó, thật ra người dân chính là yếu tố then chốt quyết định. Lãnh thổ nếu không có dân ở, không có người quản trị thì không phải là đất nước của một dân tộc. Chính quyền từ người dân mà ra, bởi vì trước khi một người ra nắm quyền cai trị đất nước thì người đó phải là một người dân của đất nước ấy. Hơn nữa, sự thịnh suy của một quốc gia nằm trong tay người dân.
“Phản động lực” mà người Đài Loan thể hiện trong cuộc bầu cử tổng thống vừa rồi khiến tôi, sau những suy nghĩ miên man về chuyện nước non, lại quay về với bài học yêu nước của thời tiểu học với câu hỏi khó, khiến nhiều học trò gác bút: “Em hãy tìm từ phản nghĩa với ‘tôn đại’.” Trung Quốc càng hung hăng đe dọa bao nhiêu, Đài Loan càng quật cường ngạo nghễ bấy nhiêu. Mà nếu Bắc Kinh ngu ngơ hay vờ vịt không biết gì đến định luật này thì, thầy nào tớ đó, Hà Nội cũng mù tịt hay giả bộ tương tự. Họặc mù tịt như thể đã hoàn toàn miễn dịch trước luật này; hoặc đóng kịch như thể không hề sống trong không gian ba chiều bình thường mà là một môi trường nào đó thiêu thiếu, cơ hồ chỉ… hai chiều rưỡi.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.