Hôm nay,  

Mưu Thật và… Thuyết Âm Mưu

04/09/202423:02:00(Xem: 1589)

iStock-1411957789
Hình từ istockphoto.com

 

Ngày bầu cử Mỹ càng tới gần, chúng ta càng bị những nhà lập thuyết âm mưu (conspiracy theorist) quấy rầy mà trong đó, tuồng chèo nhất, là ông Donald Trump.

Thường thì mỗi lần ông ta gặp một khó khăn, bất lợi, sẽ có ít nhất một thuyết âm mưu lớn hay nhỏ ra đời. Thí dụ như rắc rối pháp lý trong vụ án “hush money” với cách bào chữa mà, theo các luật gia, trông rất… đần (dump). [1] Trump cấm các luật sư biện hộ thừa nhận rằng mình ngoại tình. Trump buộc họ phải bào chữa bằng cách diễn tả vụ án như là một…. âm mưu chính trị của đối thủ Joe Biden chỉ để bị bồi thẩm đoàn bác bỏ thẳng tay, đúng như tiên đoán của giới luật gia.

Nhưng để hiểu sâu hơn thì tốt nhất là bỏ ông ta qua một bên để phân tích vấn đề như một hiện tượng phổ quát, toàn cầu. Mà, như thực tế cho thấy, bất cứ biến cố gây chấn động nào cũng đều trở thành cái nôi của những “thuyết âm mưu” với bóng dáng của các “thế lực” vô hình không ai thấy được.

Có nhiều lý do giải thích. Có thể đó là trò phản tuyên truyền hay tâm lý chiến để lèo lái dư luận nhằm bảo vệ cái gì đó hay chống lại cái gì đó, có thể là một cá nhân, một thế lực hay một hệ thống kinh tài - chính trị. Cũng có thể là do người ta chỉ đơn thuần muốn chứng tỏ ta đây thông minh, có cái nhìn xa, hơn người. Và có thể đó -- nói như Johann Hari trong bài “Diana, Osama and the rise of conspiracy theories” đăng trên tờ The Independent (11/6/ 2006) -- là những ẩn ức về đức tin. Khi người ta tin vào sự chi phối vào sự kiểm soát toàn vẹn của đấng toàn năng thì bất cứ biến cố nào đi chệch ra khỏi tầm kiểm soát đó cũng bị giới này diễn dịch như là kết quả của những âm mưu tạo phản, phá phách.

Thuyết âm mưu, như thế, chỉ hình thành từ định kiến, từ nỗi sợ hay sự hoang tưởng nên chẳng thể nào bộc lộ tinh thần thực chứng hay logic và, do đó, trên phương diện phương pháp luận, lại nhất quán nhau ở sự lẩn quẩn, lòng vòng.

Đầu tiên là lập luận lòng vòng -- circular reasoning, circle in proving hay circular logic -- là lối ngụy biện sử dụng luận đề chứng minh cho kết luận, rồi từ kết luận suy ra… luận đề, trong rất vô lý, nực cười. Đây là lối lý luận kiểu A là sự thật vì B là sự thật, B là sự thật vì A là… sự thật. Cụ thể hơn: các thế lực thù địch phản động không bao giờ từ bỏ tư tưởng chống lại chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa xã hội là tiến bộ, là hòa hợp nên mới bị các thế lực thù địch phản động chống tới cùng!

Lập luận lòng vòng thì “tư liệu” cũng lòng vòng theo, cái lối trích dẫn mà người Anh gọi là circular reference: A đưa ra một sự việc nào đó, bảo là B nói, như là bằng chứng; nhưng hỏi B thì B bảo C nói; đến hỏi C thì C bảo là nghe… A nói.

 

Cụ thể hơn, hãy điểm qua những “thuyết âm mưu” vào hàng… kinh điển.

Ngày 20/7/1969, hai phi hành gia Neil Armstrong và Edwin Aldrin đi vào lịch sử như là hai người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng thế nhưng sự kiện này bị một số nhà “lý thuyết âm mưu” lên tiếng phủ nhận. Căn cứ vào những điểm “khả nghi” trong tấm hình chụp Armstrong đứng cạnh lá cờ cắm trên Mặt Trăng, họ quả quyết rằng tất cả chỉ là chuyện dàn dựng và bức hình này chỉ được chụp tại một sa mạc ở Nevada. Nhưng bằng chứng của vụ đổ bộ ấy đâu chỉ duy nhất một tấm hình? Tàu Appollo 11 phóng từ mũi Kennedy trước con mắt hàng chục ngàn người và hàng trăm triệu người qua ống kính truyền hình. Hàng trăm ngàn thước phim quay được và chụp được khi tàu Appollo vờn trên quỹ đạo quanh mặt trăng, cảnh tàu con rời tàu mẹ để đổ bộ, cảnh các phi hành gia đi bộ và cả những túi đất đá mang về từ Mặt Trăng v.v.

 

Chúng ta thấy gì ở đây? Những bằng chứng xác thực thì nặng như núi nhưng, khi đã cố tình không tin, đã cố vạch ra những âm mưu thì chỉ cần mấy điểm khả nghi nhẹ tựa lông hồng.

 

Vụ khủng bố ngày 11/9/2001 cũng đẻ ra đủ thuyết âm mưu. Tại thế giới Ả Rập thì đó là màn kịch nhằm bôi nhọ và tạo cớ tấn công của bọn tà đạo Mỹ. Tại Tây phương thì đó là trò dàn dựng của thế lực siêu bảo thủ nhằm vỗ béo kỹ nghệ chiến tranh và, trong đó, đặc biệt nhất là thuyết của David Shayler, thành viên nòng cốt của “The 9/11 Truth Movement”. Với Shayler thì làm gì có chuyện hai máy bay hành khách đâm vào tháp đôi ở New York? Đó chỉ là hai phi đạn đạn đạo gắn các máy phóng ảnh ba chiều để tạo nên ảo ảnh về một chiếc máy bay.

 

Ai có thể tin nổi một cái “thuyết” này? Nếu chấp nhận giả thuyết “máy bay ảo” này thì chúng ta biết đặt oan hồn của những nạn nhân cùng nỗi đau của những thân nhân của họ đi đâu? Nhà “lý thuyết âm mưu” Shayler, như thế, đã vứt bỏ những một núi những bằng chứng cụ thể như chính cái cuộc đời này để thay vào đó mấy lời biện giải nhẹ tênh, chập chờn như một ảo ảnh.

 

Trại tập trung Auschwitz vẫn được chính phủ Ba Lan gìn giữ như một chứng tích rành rẽ về tội ác diệt chủng của Adolf Hitler thế nhưng đến bây giờ những “Holocaust doubters” vẫn khư khư rằng đó chỉ là trò bịp của những kẻ ủng hộ cho “chủ nghĩa Zion”. Tại Anh thì bất kể những kết quả điều tra, những môn đồ của các trường phái lý thuyết âm mưu vẫn tiếp tục lải nhải về bàn tay của Hoàng gia Anh đằng sau cái chết của Diana Spenser bởi họ không thể chấp nhận cái nỗi nhục khi cô con dâu của mình bỏ chồng đi lấy một gã đàn ông Hồi giáo.

Nhưng đáng chú ý nhất là các trận dịch, từ cổ chí kim, trận nào cũng làm nảy sinh ra những “thuyết âm mưu” kinh khủng.

 

Đại dịch kinh hoàng nhất trong lịch sử nhân loại là “Cái Chết Đen” do bệnh dịch hạch vào thế kỷ 14, với 200 triệu người thiệt mạng tại Âu, Á và Phi. Dịch bùng phát tại tỉnh Hà Bắc rồi lan ra khắp Trung Quốc, sau đó theo “Con đường tơ lụa” truyền sang vùng Trung Á và Địa Trung Hải.  Các sử liệu cho thấy rằng, chỉ trong 20 năm, Trung Quốc đã mất một phần ba dân số: năm 1200 thì dân số là 124 triệu, nhưng năm 1393 chỉ còn có 65 triệu. Trong khi đó thì tại Âu châu, dịch đã triệt hạ một phần ba dân số.

 

Trận dịch này đã khiến bao vị linh mục thời đó lúng túng khi con chiên thắc mắc: nếu Đấng Tối Cao chi phối tất cả, sắp đặt tất cả thì Ngài nỡ lòng nào buông tay để trận dịch kinh khủng này xảy ra? Thắc mắc này lại dẫn đến thuyết âm mưu nhằm đổ tội lên đầu người Do Thái, theo đó thì cái “quân giết Chúa” này đã cho thuốc độc vào các giếng nước để kiểm soát thế giới nhằm rộng đường sinh tồn cho mình. Thế là Chủ nghĩa bài Do Thái rộ lên khắp cõi châu Âu, khiến người Do Thái bị tàn sát, cướp bóc và đánh đuổi không thương tiếc.

 

Một đại dịch khác là cúm Tây Ban Nha, bùng phát ngay khi Đệ nhất thế chiến kết thúc vào năm 1918, kéo dài đến năm 1920, đoạt mạng từ 25 đến 50 triệu người, cao hơn con số người thiệt mạng trong chiến tranh. Điều đặc biệt ở đại dịch này là hầu hết những nạn nhân là ở trong độ tuổi sung mãn, từ 20 đến 40 và khiến nam giới có nguy cơ mắc bệnh và tử vong hơn là nữ giới. Số người tử vong ở châu Á và châu Phi được ghi nhận cao hơn châu Âu, Bắc Mỹ và châu Úc và sự phát sinh virus này vẫn là một điều bí ẩn và, cho đến những năm 1930, nhiều người vẫn tin rằng quân đội Đức đã tạo ra mầm bệnh và sử dụng nó như là một vũ khí.

 

Thuyết âm mưu còn ra đời với mục đích tuyên truyền, đánh lạc hướng công chúng. Năm 1950, dịch bệnh bọ cánh bùng lên tại Đông Đức, huỷ hoại toàn bộ vụ mùa khoai tây và bộ máy tuyên truyền Đông Đức cũ đã mau mắn kết tội Mỹ: không phải đảng ta dở, mà đó là do Mỹ phá hoại.

 

Thập niên 1980, khi bệnh AIDS bắt đầu xuất hiện thì những thông tin sai lệch lại nổi lên. Năm 1983, Cục tình báo Liên Xô (KGB) cáo buộc Mỹ đã phát triển AIDS tại pháo đài Detrick để sử dụng làm vũ khí sinh học rồi thử nghiệm đối với các tù binh, các nhóm người thiểu số và những người đồng tính. KGB này còn tung tin là Mỹ đã cố tình đánh lạc hướng dư luận với tuyên bố căn bệnh này xuất phát từ Phi châu. Đến giữa thập niên 1990 khi Liên Xô sụp đổ, cơ quan y tế các quốc gia phần lớn đã kiểm soát được căn bệnh AIDS thì châu Phi lại bùng phát dịch bệnh Ebola. Vậy là thuyết âm mưu về bệnh AIDS trước đây lại được tái chế, theo đó virus Ebola là vũ khí sinh học do Mỹ hay Anh chế tạo.

 

Gần đây nhất là thuyết về dịch bệnh Covid 19, nở rộ và lan truyền rất nhanh hơn nhờ vào Internet rồi trở thành đề tài tranh cãi giữa hai siêu cường Mỹ - Tàu.

 

Ngày 12/3/2020 – một ngày sau khi nguyên Cố vấn An ninh quốc gia Mỹ Robert O'Brien chỉ trích Trung Quốc phản ứng chậm chạp, làm thế giới mất đi hai tháng chuẩn bị -- Triệu Lập Kiên (Zhao Li Jian) – nguyên phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung Quốc -- ỡm ờ tuyên bố trên mạng xã hội: “Biết đâu chính quân đội Mỹ đã mang dịch Covid-19 đến Vũ Hán”. Triệu đưa ra hàng loạt câu hỏi: “Bệnh nhân số 0 ở Mỹ là ai? Có bao nhiêu người bị nhiễm SARS-CoV-2? Tên của các bệnh viện là gì? Biết đâu chính quân đội Mỹ đã mang dịch Covid -19 đến Vũ Hán?”

 

Trước đó, cuối tháng Hai năm 2020, chuyên gia dịch tễ hàng đầu của Trung Quốc là Chung Nam Sơn (Zhong Nanshan), còn tuyên bố lập lờ: “Dù Covid-19 được phát hiện đầu tiên ở Trung Quốc, nhưng điều đó không có nghĩa là nó có nguồn gốc từ Trung Quốc.”

 

Nhưng thực tế thì vẫn có những âm mưu nung nấu về một trận dịch như vậy nhưng trái ngược với chủ ý mà Chung hay Triệu muốn “mớm”. Âm mưu này đã để lộ trong bài diễn văn của nguyên Phó chủ tịch quân ủy trung ương Trung Quốc Trì Hạo Điền (Chi Haotien) tại “Hội nghị các tướng lĩnh bàn về chiến lược cho tương lai” vào tháng 12 năm 2005. Đây là hội nghị mật với những tham luận “phổ biến nội bộ” nên mãi bốn năm sau, ngày 26/4/2009, mới bị lộ ra ngoài trên và khiến chính giới Mỹ báo động. [2]

 

Tại hội nghị Trì nhấn mạnh rằng Trung Quốc là chủng tộc siêu đẳng nhất, có sứ mệnh quét sạch nước Mỹ để làm bá chủ thế giới, để làm như vậy thì cách thức giản tiện nhất là sử dụng vũ khí sinh học và nếu cần thì có thể tàn bạo hơn cả Hitler để tìm kiếm không gian sinh tốn. Trì tuyên bố:

 

“Chỉ các nước như Mỹ, Canada và Úc là có đất đai rộng lớn đủ để thoả mãn cho nhu cầu thuộc địa lớn lao của chúng ta. Vì vậy, việc giải quyết vấn đề nước Mỹ là vấn đề căn bản để giải quyết tất cả những vấn đề khác. Trước hết, việc này làm chúng ta có thể có điều kiện đưa nhiều di dân sang Mỹ và ngay cả thiết lập một nước Trung Hoa khác dưới cùng sự lãnh đạo của đảng Cộng sản Trung Hoa. […]

 

Trong lịch sử, khi một nước đánh bại một nước khác hay xâm chiếm một nước khác, nó không thể tàn sát toàn bộ dân số trong nước bị xâm lăng vì thời đó các anh không thể giết nhiều như thế bằng kiếm hay bằng giáo mác, thậm chí cả bằng súng tiểu liên hay súng đại liên. Vì vậy, không thể chiếm cứ một vùng đất mà không giữ dân chúng của vùng đất đó. Tuy nhiên, nếu chúng ta chinh phục Mỹ bằng cách này, chúng ta không thể đưa nhiều người của chúng ta di dân tới Mỹ được.

[...]

 

Chỉ có những vũ khí không hủy diệt nhưng có thể giết càng nhiều người càng tốt mới giúp chúng ta giữ lại được nước Mỹ để mà khai thác. Đã có những phát triển nhanh chóng về kỹ thuật sinh học hiện đại, và những vũ khí sinh học loại mới được tiếp tục phát minh, cái này tiếp nối kia. Dĩ nhiên chúng ta đã không ngồi yên; trong những năm qua, chúng ta đã nắm bắt nhiều cơ hội để làm chủ những loại vũ khí sinh hóa này. Chúng ta có khả năng đạt được mục đích của chúng ta trong việc ‘quét sạch’ nước Mỹ một cách bất ngờ. [….] Các vũ khí sinh học chưa hề được sử dụng cho nên chưa ai thấy sự tàn độc của chúng. Nhưng nếu Mỹ không chết thì người Trung Quốc phải chết. Nếu người Trung Quốc bị mắc kẹt trong vùng đất Trung Quốc hiện nay thì hậu quả trong tương lai gần là một sự sụp đổ xã hội toàn diện.”

 

Sẽ không bao giờ đủ nếu phải nói cho hết những “mưu” có thật và những “thuyết” hoang đường để tuyên truyền của Bắc Kinh nên, thôi, thử quay về với… tông chi họ hàng của nó, ở Hà Nội.

 

Đây cũng là hang ổ của những nhà chế tác thuyết âm mưu thế nhưng nếu như, với người, mỗi sự biến làm nảy sinh một thuyết âm mưu thì, ở đây, suốt mấy chục năm qua, chỉ thấy nhai đi nhai lại mỗi một âm mưu của “thế lực thù địch phản động” như là lý do để bóp họng nhân dân và bóp cổ những người bất đồng chính kiến. Nếu mới nhất, qua đội ngũ dư luận viên, là “âm mưu cách mạng màu” của Đại học Fullbright thì, nếu được bật đèn xanh tiếp, cũng chỉ để gán ghép đại học này như là công cụ của “thế lực thù địch phản động” vậy thôi.

 

Như đã nói, thuyết âm mưu thường phát sinh từ sự run sợ trước những biến cố chấn động thì, ở đây, những “âm mưu” ấy cũng ra đời như thế khi giới đặc quyền hoang mang trước sự lỗi thời của bộ máy cai trị đã mất hết tính chính danh. Mà đã lỗi thời, đã bất chính danh rồi thì tiếng nói cũng không thể không lỗi thời, không thể không bất chính danh theo, toàn những luận điểm cũ rích, những lập luận cù nhầy, nhai đi nhai lại, trên những bài xã luận chính thống, và trên cả mồm mép luận viên.

 
Nguyễn Hoàng Văn

Tham khảo:

 

  1. https://www.msn.com/en-au/news/other/hush-money-trial-lawyers-are-using-a-defense-too-dumb-for-even-the-trump-base-analyst/ar-BB1lUrrE?cvid=97aee37a57e3428da687642f28dfefcd&ei=60
  2. https://jrnyquist.blog/2019/09/11/the-secret-speech-of-general-chi-haotian/comment-page-1/

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Kể từ khi tổ chức khủng bố Hamas tấn công vào Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023, các vụ xung đột đẫm máu xảy tại Dải Gaza cho đến nay vẫn chưa kết thúc. Nhưng gần đây, cộng đồng quốc tế còn tỏ ra lo ngại nhiều hơn khi giao tranh giữa Israel và lực lượng dân quân Hezbollah ở Lebanon đang gia tăng. Bằng chứng là sau cái chết của thủ lĩnh Hamas Ismail Haniya và thủ lĩnh Hezbollah Hassan Nasrallah, tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Trong vài tháng qua, người dân Mỹ, dù muốn hay không muốn, cũng đã có nhiều cơ hội để nhìn về một bức tranh mà trong đó có quá nhiều sự tương phản. Những mảnh ghép từ hai tầm nhìn, hai chiến lược, hai mục đích hoàn toàn khác biệt đã dần dần rơi xuống, để lộ ra hai con đường hoàn toàn khác biệt cho người Mỹ lựa chọn. Dù có một bức màn đã rơi xuống (như nữ hoàng Oprah Winfrey đã ví von) cho một thuyền trưởng bước ra, trao lại cho người dân sự hy vọng, lòng tin, trách nhiệm, thì sâu thẳm bên trong chúng ta vẫn muốn biết, những giá trị thực của một triều đại đã mang lại. Từ đó, niềm tin sẽ được củng cố.
Bi hài kịch “ngoại giao cây tre”, với hoạt cảnh mới nhất là “cưỡng bức đặc xá”, đã giúp chúng ta nhận ra rằng, dẫu khác nhau nước lửa, “phóng sinh” và “hiến tế” vẫn có thể hội tụ ở ý nghĩa “triều cống” khi phải chiều lòng hai cường quốc ở hai đầu mút của hai hệ tư tưởng trái ngược nhau. Để đẹp lòng bên này thì phải nhẫn tâm “hiến tế”, mà để làm hài lòng bên kia thì phải diễn tuồng “phóng sinh” để có một dáng dấp khai phóng, cởi mở. “Chiến lược ngoại giao” này, phải chăng, là một trò chơi “ăn bù thua” mà, diễn đạt bằng ngôn ngữ toán học của Game Theory, là có tổng bằng không?
Trận Điện Biên Phủ kết thúc vào hôm 7 tháng 5 năm 1954. Bẩy mươi năm đã qua nhưng dư âm chiến thắng, nghe chừng, vẫn còn âm vang khắp chốn. Tại một góc phố, ở Hà Nội, có bảng tên đường Điện Biên Phủ – cùng với đôi dòng chú thích đính kèm – ghi rõ nét tự hào và hãnh diện: “Tên địa danh thuộc tỉnh Lai Châu, nơi diễn ra trận đánh quyết liệt của quân và dân ta tiêu diệt tập đoàn cứ điểm thực dân Pháp kéo dài 55 ngày đêm”.
JD Vance đã chứng tỏ một “đẳng cấp” khác, rất “Yale Law School” so với thương gia bán kinh thánh, giày vàng, đồng hồ vàng, Donald Trump. Rõ ràng, về phong cách, JD Vance đã tỏ ra lịch sự, tự tin – điều mà khi khởi đầu, Thống đốc Walz chưa làm được. Vance đã đạt đến “đỉnh” của mục tiêu ông ta muốn: lý trí, ôn hoà, tỉnh táo hơn Donald Trump. “Đẳng cấp” này đã làm cho Thống Đốc Tim Walz, người từng thẳng thắn tự nhận “không giỏi tranh luận” phải vài lần phải trợn mắt, bối rối trong 90 phút. Cho dù hầu như trong tất cả câu hỏi, ông đã làm rất tốt trong việc phản biện lại những lời nói dối của JD Vance, đặc biệt là câu chất vất hạ gục đối thủ ở phút cuối: “Trump đã thua trong cuộc bầu cử 2020 đúng không?” JD Vance đáp lại câu hỏi này của Tim Walz bằng hàng loạt câu trả lời né tránh và phủ nhận sự thật. Và dĩ nhiên, rất “slick.” “Trump đã chuyển giao quyền lực rất ôn hoà.” Cả thế giới có thể luận bàn về sự thật trong câu trả lời này.
Phải nhìn nhận rằng chuyến đi đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đến Mỹ đã được giới chức ngoại giao Việt Nam thu xếp để ông gặp được nhiều lãnh đạo, xem như xã giao ra mắt để hợp tác, hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lãnh vực trong tương lai. Bài diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc chỉ lặp lại các chính sách đối ngoại của Hà Nội, nên không được truyền thông quốc tế chú ý nhiều như các diễn văn của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky và Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu, là đại diện cho những quốc gia trực tiếp liên can đến các xung đột ở Trung Đông, ở Ukraine mà có nguy cơ lan rộng ra thế giới. Ông Lâm mới lên làm chủ tịch nước kiêm tổng bí thư Đảng Cộng sản được vài tháng, sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời, nên ông muốn dịp đến Liên Hiệp Quốc là dịp để thể hiện vai trò lãnh đạo của mình và nhấn mạnh đến chính sách ngoại giao du dây của Hà Nội.
Sự bất mãn lan rộng với các hệ thống thuộc chủ nghĩa tư bản hiện tại đã khiến nhiều quốc gia, giàu và nghèo, tìm kiếm các mô hình kinh tế mới. Những người bảo vệ nguyên trạng tiếp tục coi Hoa Kỳ là một ngôi sao sáng, nền kinh tế của nước này vượt xa châu Âu và Nhật Bản, các thị trường tài chính của nước này vẫn chiếm ưu thế hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, công dân của nước này cũng bi quan như bất kỳ công dân nào ở phương Tây.
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.