Hôm nay,  

Lãng Phí Trong Đầu Tư

18/11/200300:00:00(Xem: 16030)
Hôm 17-11, báo chí VN cho biết theo giới chức đầu tư của Bộ Tài chính, việc đầu tư và xây dựng cơ bản trong khu vực kinh tế nhà nước thất thoát từ 20 đến 25 ngàn tỷ đồng mỗi năm, một con số rất lớn so với tổng sản lượng hàng năm của toàn dân.
Dưới đây là bài của đài RFA trao đổi với Kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa về hiện tượng trên.
Hỏi: Thưa ông, tin tức báo chí trong nước vừa nói về việc đầu tư và xây dựng cơ bản thì nhà nước bị thất thoát mỗi năm từ 20 đến 25 ngàn tỷ đồng. Ông nghĩ sao về điều đó"
-- Đầu tiên là một sự vui mừng, vì thứ nhất đã có giới chức nhà nước đề cập đến tệ nạn này, thứ hai, đã có báo chí dám nói đến sự phê phán đó. Trước đây, chỉ có dân gian nói ra và nói xong thì bị phiền nhiễu, thậm chí hoạn nạn. Đó là nhận xét sơ khởi về hệ thống báo động và tôi xin được nhắc lại nhận xét của một kinh tế gia gốc Ấn Độ, ông Amartya Sen, giải Nobel về Kinh tế năm 1998, là trong các xã hội có tự do báo chí, ta không có nạn đói vì nguy cơ bị đói được báo chí tức thời đề cập khiến nhà nuớc không thể không có biện pháp đối phó. Cho nên, không thể có phát triển kinh tế đồng bộ và bền vững nếu không có tự do thông tin. Đó là nhận xét thứ nhất. Nhận xét thứ hai là về kích thước của vấn đề. Do báo cáo của cơ chế có thẩm quyền là Bộ Tài chính, nạn thất thoát hay lãng phí đầu tư trong khu vực tư nhân hay đầu tư trực tiếp của nước ngoài thì rất ít hoặc không có. Đấy nhờ là quy luật kinh tế gọi là “của đau con xót”, ngược lại, vấn đề nằm trong khu vực nhà nước. Tại Việt Nam ngày nay, khu vực kinh tế nhà nước vẫn chiếm lĩnh vai trò chủ đạo vì cái gọi là “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Phần đầu tư của khu vực này, thuộc nhiều cấp độ và thẩm quyền, vẫn được coi là động lực chính của tăng trưởng kinh tế theo những ưu tiên mơ hồ của chính phủ hay của đảng cầm quyền và lãnh đạo. Trong ngân khoản đầu tư đó thì đầu tư và xây dựng cơ bản chỉ là một phần thôi. Vậy mà số lượng thất thoát hay lãng phí được chính thức xác định bởi Vụ Đầu tư của Bộ Tài chính lại lên đến từ 20 đến 25 ngàn tỷ đồng Việt Nam thì ta phải giật mình vì lên tới 30% kim ngạch đầu tư của khu vực nhà nước. Quy ra đô la theo hối suất hiện hành thì khoản mất mát đó lên tới bình quân là 5% tổng sản lượng hàng năm của quốc dân. Nếu kinh tế quốc dân hàng năm tăng thêm được 7% thì 5%, tức là hơn 70% số đó, bị mất vào tay một số kẻ thừa hành trong bộ máy nhà nước. Sự mất mát đó khiến cho một thiểu số có thể làm giàu bất chính trên lưng đa số nghèo túng và đây là nghịch lý nếu so với cái gọi là “định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Hỏi: Đi vào chi tiết, thưa ông, vì sao lại có nạn thất thoát đó"
-- Về các nguyên do thì ta phải phân biệt hai lãnh vực. Thứ nhất là về kỹ thuật quản trị ngân sách quốc gia; vì thiếu mạch lạc về ưu tiên và thiếu chặt chẽ trong thông tin nên dự án thực hiện không sát mục tiêu, gây lãng phí về tài nguyên và cơ hội, đáng lẽ dùng vào việc này thì có hiệu quả kinh tế hay xã hội cao hơn là vào việc khác. Lãnh vực đó có thể cải tiến nếu người ta muốn và nhất là chấp nhận nguyên tắc “phàm cái gì dân làm được thì nhà nước đừng làm để khỏi cạnh tranh”, với năng suất vốn dĩ là thấp hơn tư doanh. Khốn nỗi, và đây ta đụng vào lãnh vực thứ hai, là cơ chế chính trị và luật pháp bất toàn gây ra không chỉ lãng phí mà thực tế là thất thoát, nôm na là sang đoạt bất hợp pháp. Ai có thể làm nổi việc chiếm đoạt ấy nếu không có liên hệ đến nhà nước" Nạn thất thoát xảy ra ở tất cả các khâu, các chặng, của việc đầu tư, từ trù hoạch hay quy hoạch đến xác định chủ trương đầu tư, soạn thảo dự án, thẩm xét giá trị kinh tế hay xã hội của dự án, đến phê duyệt, giải phóng mặt bằng và tái định cư dân chúng bị chuyển dịch nếu liên hệ đến đất đai, rồi thủ tục đấu thầu, thực hiện, thanh toán và kiểm tra tiến độ thực hiện công trình. Những chi tiết này vừa được nêu ra, với rất nhiều thí dụ cụ thể mà dân trong nước từng nơi đều có thể đã phong thanh nghe nói đến. Trong hai lãnh vực gây vấn đề thì phần kỹ thuật quản trị ngân sách và dự án đã được các nước hay cơ quan cấp viện chú ý, khuyến cáo và viện trợ khá nhiều về cả tài chính và kỹ thuật để khắc phục. Lãnh vực cơ chế lại là nơi khó xử lý nhất vì đụng vào quyền lực. Mà quyền lực càng cao, dự án càng lớn thì tỷ lệ thất thoát càng nhiều vì trách nhiệm càng nhỏ về cả hành chính, hình sự hay chính trị.
Hỏi: Xin ông đơn cử cho một số thí dụ về hiện tượng này.

-- Thí dụ thì có rất nhiều, từ Bắc vào Nam đều có. Như vụ xây dựng đường liên tỉnh 15 với Chủ đầu tư là Công ty Đầu tư và Phát triển Hạ tầng Cơ sở. Họ đầu tư theo thể thức BOT (build,-operate-transfer) là xây dựng, điều hành và chuyển giao. Vốn đầu tư ban đầu là hơn 99 tỷ đồng, sau được phù phép thổi hai lần thành gần 199 tỷ, làm Ủy ban Nhân dân thành phố Sàigon kêu trời là có sai phạm nghiêm trọng gây thất thoát đến mươi tỷ. Vụ ông Bùi Xuân Trường, nguyên Giám đốc Xí nghiệp Xây dựng Công trình Giao thông của Bộ Giao thông Vận tải đã rút tiền chi sai nguyên tắc đến 26 tỷ đồng. Nổi tiếng nhất trong dư luận là vụ bà Lã Thị Kim Oanh đang ra tòa vì đã tham ô gần 83 tỷ đồng trong chức vụ Giám đốc Công ty Tiếp thị Đầu tư Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn, số tiền đó là hơn năm triệu đô la, trong một xứ mà lợi tức cả năm của dân cư chưa lên đến 400 đô la một người. Cũng bộ Giao thông và Vận tải, là chủ đầu tư của dự án xây cầu Hoàng Long và cầu Hàm Rồng ở Thanh Hóa, đã không tiến hành việc thẩm định dự án cho đầy đủ và chặt chẽ nên vốn đầu tư tăng từ hơn 83 tỷ lên tới hơn 224 tỷ đồng.
Hỏi: Bây giờ, sau khi tìm hiểu về nguyên do và kích thước vấn đề, xin hãy nói qua về lối xử lý. Nếu ông cho rằng vấn đề chính thuộc lãnh vực cơ chế, người ta sẽ xử lý ra sao"
-- Vấn đề cơ chế đó thuộc phạm vi “văn hóa xã hội chủ nghĩa”, xin tạm gọi là “cha chung không ai khóc” của thời bao cấp, và được duy trì cho đến nay vì cái chủ trương chính trị gọi là “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đất nước là của toàn dân, cũng như đất đai theo định nghĩa chính thức hiện hành, nhưng lại “do nhà nước thống nhất quản lý”, cũng theo định nghĩa chính thức. Nghị quyết xác định ưu tiên, nhà nước soạn thảo dự án căn cứ trên lắm ưu tiên chính trị vu vơ mà không ai dám nêu thành vấn đề, điển hình là dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất. Sau đó, nhà nước thẩm định rồi phê duyệt dự án, làm chuẩn chi viên kiêm thanh toán viên lẫn giám sát và quyết toán sổ sách rồi trấn an nhau bằng nguyên tắc “hậu kiểm”. Có khi dự án đưa vào sử dụng từ một hai năm rồi mà chưa có cơ quan phê duyệt báo cáo quyết toán. Nhà nước mà bao biện như vậy tất nhiên gây thất thoát tài sản quốc dân, ở đâu cũng thế mà thôi.
Hỏi: Tức là với cơ chế chính trị hiện nay,nạn lãng phí hay thất thoát đó sẽ còn tiếp tục"
-- Cơ bản là như vậy. Trong khi chờ đợi, người ta có thể khắc phục được một số khó khăn để dân chúng khỏi bất mãn bằng cách tăng cường khả năng giám sát của một số cơ chế độc lập, thí dụ cao cấp nhất là Quốc hội, nếu cơ chế này dám đảm nhận trách nhiệm độc lập, là điều vẫn rất khó. Nếu không, thì vẫn chỉ là tay phải ngăn tay trái của cùng một cơ thể là đừng “dĩ công vi tư”. Thói thường, người ta làm gì cũng biết so sánh lợi ích kinh tế với rủi ro bị trừng phạt khi vi phạm luật lệ. Nếu thấy rủi ro không đáng kể vì ta được cơ chế chính trị bảo vệ thì bất cứ ai ngồi vào vị trí có “định hướng” đó đều có thể bị cám dỗ.
Hỏi: Ông nhiều lần nói đến “định hướng xã hội chủ nghĩa” như một nguyên nhân của tệ tham ô lãng phí. Xin ông tổng kết cho buổi trao đổi hôm nay về vấn đề này.
-- Trung tuần tháng 10 vừa qua, tại Bắc Kinh, đã có một hội nghị trao đổi giữa các nhà lý luận Việt Nam và Trung Quốc về khái niệm hay phạm trù này, tạm gọi là “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa” hay “xã hội chủ nghĩa với màu sắc Trung Hoa” nói theo lối Trung Quốc, hoặc “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, là lối nói của lãnh đạo Việt Nam. Thực chất thì không ai xác định được nội dung của những khái niệm đó ra sao, ngoài một số nhà lý luận, vốn sống tách rời khỏi đời sống dân sinh và được gọi ra chứng minh rằng lãnh đạo có nói trắng hay đen gì thì vẫn có lý. Họ như các quan Thái sử hay Chiêm bốc thời phong kiến đã nhân danh những vận hành mơ hồ của thiên nhiên vạn vật hay Thiên mệnh để tâu bày rằng Hoàng đế luôn luôn có lý. Những lý luận theo lối viện dẫn Karl Marx hay Lenin đều chỉ là phần biện bác của các quan thái bốc hiện đại. Tuy nhiên, vượt ra khỏi mâu thuẫn của lối trói voi bỏ giọ hoặc chứng tỏ hình tròn có bốn góc như vậy, ta có thể nói “định hướng xã hội” của một chính quyền là quan tâm đến đa số, nhất là những kẻ thất thế trong xã hội, và giải trừ mọi thế lực độc quyền của những kẻ có tiền hay có quyền, hầu kết quả của phát triển được phân phối đồng đều hơn cho đa số. Và, quan trọng hơn hết, người ta không thể chống lại quy luật thị trường, hoặc đưa nhà nước lên thành cơ chế trấn áp thị trường, nhân danh xã hội chủ nghĩa hay nhân danh bất cứ điều gì. Làm như vậy, nhà nước dễ là công cụ của một thiểu số có tư thế an toàn nhất để chiếm đoạt tài sản công cộng mà không sợ bị trừng phạt. Từ mấy năm cuối của thập kỷ 60, một số nước Đông Âu, điển hình là Hungary, đã cố tìm ra hình tròn bốn góc bằng phạm trù “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa” mà không xong, và cuối cùng thì chế độ cộng sản bao cấp tại đấy cũng tan tành. Bốn mươi năm sau mà Việt Nam còn loay hoay trong vòng lý luận đó thì không nên ngạc nhiên vì sao xứ sở chậm tiến. Kinh tế có tăng trưởng 7% mà 70% của số đó lại tuột vào tay một thiểu số thân cận với đảng và nhà nước thì rõ là người ta đùa cợt với lý tưởng xã hội chủ nghĩa.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.
Trong bối cảnh thế giới đang trải qua những biến động nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và công nghệ, toàn cầu hoá – vốn từng được xem là động lực chính thúc đẩy cho tăng trưởng và thịnh vượng – đang đứng trước những thách thức chưa từng có. Tiến trình công nghiệp hoá và toàn cầu hoá đã đem lại nhiều thành tựu vượt bậc trong suốt thời gian dài qua, từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI, đặc biệt là thông qua sự chuyên môn hoá, tự do thương mại và tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên, các cuộc khủng hoảng tài chính, đại dịch toàn cầu, chiến tranh và cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc đã khiến mô hình toàn cầu hoá truyền thống bộc lộ nhiều tình trạng bất ổn...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.