Hôm nay,  

Tổng Thống Và Đcsvn

11/23/200600:00:00(View: 12397)

Ông Tổng Thống và Đảng Cộng Sản Việt Nam

Nhân dịp Tổng thống Hoa Kỳ George Bush tới Việt Nam tham dự Hội nghị thượng đỉnh diễn đàn Hợp tác Kinh tế Á châu Thái bình dương (APEC) tại Hà Nội và chính thức viếng thăm Việt Nam, Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế - hiện đang cư ngụ tại Chợ Lớn - đã có một bài nhận định đánh giá Hoa Kỳ qua chuyến đi này. Bài viết được đăng trên trang bình luận báo Wall Street Journal Asia ngày thứ Năm 16-10-2006 với tựa đề "The President and the Party". Nguyên văn bài báo bằng tiếng Anh, Đinh Từ Thức chuyển ngữ.

Chợ Lớn, Việt Nam - Khi Tổng thống Bush tới Việt Nam vào thứ Sáu, ông sẽ thấy một quốc gia dang khao khát tự do. Cuộc thăm viếng của ông trong khuôn khổ tham dự Hội nghị thượng đỉnh thường niên của diễn đàn Hợp tác Kinh tế Á châu Thái bình dương, sẽ là một dịp quan trọng để lượng định sự cân bằng của Hoa Kỳ trong việc hỗ trợ dân chủ và theo đuổi lợi nhuận về kinh doanh tại một nước đang phát triển nhanh về kinh tế. Người dân Việt Nam đang quan sát những dấu hiệu chứng tỏ Hoa Kỳ không bỏ rơi họ trong cuộc tranh đấu lâu dài để có tự do.

Mặc dầu đã ba thập niên bị áp bức, niềm mong mỏi được tự do khỏi ách độc tài Cộng sản vẫn mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Hàng trăm ngàn người đã chết trong cuộc tranh đấu này. Các trại Tập trung - ngụy danh "Cải tạo" - đã trừng phạt, nhiều khi cho tới chết, những người đứng về phía Hoa Kỳ cho tới khi Sàigòn sụp đổ vào năm 1975. Những người khác đã bỏ mình trên biển cả trong những chuyến vượt thoát của thuyền nhân, bầy tỏ cho thế giới thấy được người thường dân Việt Nam có thể cố gắng tới mức nào để thoát cảnh bạo ngược.

Nhiều người nữa đã phải chịu khủng bố qua những hình thức khác. Bản thân tôi, trong 30 năm vừa qua, đã trải qua 20 năm trong tù, chỉ vì một lý do dản dị là lên tiếng chống lại áp bức. Tôi đã bị giam giữ không xét xử từ năm 1978 đến 1988 vì vai trò thành lập Mặt trận Quốc gia Tiến bộ, một tổ chức tận hiến cho việc phát huy nhân quyền tại Việt Nam. Rồi đến năm 1990, được gợi hứng bởi các phong trào tranh đấu dân chủ tại Đông Âu, một nhóm các trí thức, chuyên gia và sinh viên đại học cùng với tôi đã lập ra Cao trào Nhân bản. Bản tuyên ngôn của chúng tôi, kêu gọi một cuộc tranh đấu bất bạo động cho một Việt Nam tự do, dân chủ và đa đảng, đã khiến tôi phải trả giá bằng tám năm tù khổ sai, cộng thêm 5 năm quản thúc tại gia. Chuyện này vừa chấm dứt, người ta lại bỏ tù tôi lần nữa. Lần này vì đã chỉ trích tình trạng thiếu tự do thông tin tại Việt Nam. Mãi tới tháng Hai năm ngoái tôi mới được thả ra.

Nhưng các biện pháp áp bức như vậy đã không ngăn chặn nổi hàng ngũ những người chống đối tiếp tục lớn mạnh và lan rộng bao gồm nhiều tầng lớp trong xã hội Việt Nam - từ các nhà lãnh đạo tôn giáo tới nông dân và thợ thuyền. Trên đà tăng tiến, chúng tôi đã khởi đầu họp lại với nhau thành các chính đảng, phong trào hoặc liên minh, trực diện thách thức đường lối cai trị của Cộng sản. Ví dụ Khối 8406, một nhóm nhân quyền đã đặt tên cho mình bằng ngày thành lập, ngày 8 tháng 4 năm 06. Trong bảy tháng từ khi ra đời, bản Tuyên ngôn của nhóm về Tự do Dân chủ cho Việt Nam đã thu hút hàng ngàn chữ ký ủng hộ. Và sự thành hình vào tháng rồi của Liên minh Dân chủ và Nhân quyền, một liên minh rộng lớn với sự liên kết giữa Khối 8406, các nhà lãnh đạo Phật giáo và Công giáo, và Cao trào Nhân bản của tôi.

Ngay cả những người không dám công khai đương đầu với chế độ Cộng sản đã chọn hình thức phản kháng thụ động. Ví dụ, mặc dầu chính quyền phủ nhận quyền sở hữu đất đai của tư nhân, nhiều nông dân đã coi thường chuyện này. Thay vào đó, họ đã mua bán đất đai với nhau bằng văn tự viết tay, và giải quyết những tranh chấp qua trung gian chứ không chịu đưa nội vụ ra cho chính quyền xét xử.Một chợ đen khổng lồ đã giúp người dân qua mặt hệ thống nhà nước kiểm soát và kinh doanh với nhau mà không phải đóng góp cho hầu bao của đảng. Sách báo và phim ảnh bị cấm đã được lưu hành rộng rãi qua hệ thống chợ đen.

Biết rõ tình trạng dân chúng đang thoát khỏi vòng kiềm tỏa, giới lãnh đạo Cộng sản đã dựa vào thế giới bên ngoài để chấn chỉnh quyền hành. Vì thế, họ mong muốn để Việt Nam gia nhập Tổ chức Mậu dịch Thế giới (WTO). Bằng việc gia nhập tổ chức toàn cầu này, Đảng hy vọng sẽ củng cố độc quyền cai trị bằng hai mặt. Trước hết, hứa cuội về việc gia tăng tôn trọng nhân quyền và cai trị bằng luật pháp, nhà cầm quyền hy vọng sẽ hóa giải được những áp lực của ngoại quốc đối với Việt Nam và gây khó khăn thêm cho chúng tôi trong việc duy trì hậu thuẫn của quốc tế cho cuộc chiến đấu đòi dân chủ ở trong nước. Thứ đến, Đảng nhắm tới các lợi nhuận do ngoại quốc đầu tư tràn ngập sẽ ưu tiên dành cho đảng viên của mình, để họ tiếp tục trung thành với đảng.

Nhưng chúng ta cũng không thể chối cãi được vai trò tích cực của cải cách kinh tế và tự do mậu dịch trong việc làm gia tăng tự do về thông tin và làm bàn tay khống chế của đảng đối với xã hội trở thành lỏng lẻo hơn. Ngoài ra, việc phát triển tự do kinh tế còn làm nảy sinh một tầng lớp trung lưu lớn hơn và phồn thịnh hơn với những khát vọng về tự do chính trị..

Dầu sao, người ngoại quốc tới Việt Nam kinh doanh cần suy tính rất thận trọng, liệu công cuộc đầu tư của mình sẽ góp phần vào việc phát huy dân chủ hay chỉ nhắm giúp củng cố một chế độ Cộng sản trên đường xuống dốc. Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, với truyền thống cao cả và lâu đời trong việc hỗ trợ nhân quyền và dân chủ trên toàn thế giới, còn phải cân nhắc suy tính nhiều hơn nữa.

Điều này có nghĩa là cần tránh đầu tư vào những công ty quốc doanh, vì ở đó, tiền sẽ chạy thẳng vào két bạc của Đảng. Cũng có nghĩa là cần phải lớn tiếng và mạnh bạo ủng hộ nhân quyền - điều mà Tổng thống Bush sẽ có cơ hội làm vào tuần này. Ví dụ, ông có thể đòi gặp một số các nhà bất đồng chính kiến Việt Nam. Hoặc là, Tổng thống Hoa kỳ có thể dùng cuộc viếng thăm để thúc đẩy Hà Nội xác định một thời biểu cho những cuộc bầu cử công bằng và tự do, trong đó, các đảng phái ngoài đảng Cộng sản cũng được quyền tranh cử.

Dù chọn lựa cách nào, những cử chỉ như vậy sẽ tạo được ấn tượng lớn trong việc làm yên tâm người dân thường Việt Nam là Hoa Kỳ đã không bỏ rơi họ trong cuộc đấu tranh lâu dài chống Cộng sản áp bức.

Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế là một y sĩ bị nhà cầm quyền Cộng Sản từ chối không cho ông hành nghề y khoa, ông là Chủ Tịch của Cao Trào Nhân Bản Việt Nam.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.