Hôm nay,  

Một Chủ Nghĩa Dân Tộc Mới Tại Á Châu?

7/1/200300:00:00(View: 25932)
Cách đây sáu năm, cuộc khủng hoảng kinh tế Đông Á khởi đầu với vụ biến động tài chính mùng hai tháng Bảy năm 1997 tại Thái Lan. Ngày nay, cả khối Đông Á chưa hoàn toàn phục hồi, nhưng bài học của cuộc khủng hoảng có thể dẫn tới một chủ nghĩa dân tộc mới cho các nước liên hệ.
Nhắc lại biến cố này, Đài RFA đã trao đổi cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa về viễn ảnh của một chủ nghĩa dân tộc mới về kinh tế....
Hỏi: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, khi cuộc khủng hoảng kinh tế bùng nổ tại Đông Á, sáu năm về trước vào đúng ngày này, Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohammad kết án giới đầu tư quốc tế là gây ra biến động tài chính tại Đông Nam Á. Tuần qua, cũng ông Mahathir đã lại đả kích Tây phương về tội đã qua là xâm lược và bành trướng toàn cầu. Vì vậy giới quan sát quốc tế cho rằng một trong những hậu quả của cuộc khủng hoảng Đông Á là sự tái xuất hiện của chủ nghĩa dân tộc tại Á châu, điều đó đúng hay sai"
-- Thủ tướng Mahathir phát biểu như vậy trong Đại hội đảng hàng năm của ông, nên người ta cần đặt lời phát biểu của ông vào khung cảnh đó. Nói chung, nhiều giới lãnh đạo ưa tìm ra đối tượng ngoại quốc để đổ lỗi về các vấn đề mình gặp. Khi Malaysia và nói chung các xứ Đông Nam và Đông Bắc Á phát triển nhanh vượt bực nhờ đầu tư nước ngoài thì họ dễ tạm quên tinh thần bài ngoại; khi gặp khó khăn thì tinh thần tiêu cực đó được khoác áo chủ nghĩa dân tộc để tranh thủ hậu thuẫn của người dân và khỏa lấp trách nhiệm của nhà nước. Đây là một thái độ không có lợi ích thực tế cho các nước trong khu vực.
Hỏi: Nhưng thực tế cho thấy trong vụ khủng hoảng 1997-1998 Đông Á có bị chấn động bởi những yếu tố ngoại nhập và điều đó mới giải thích phản ứng bài ngoại nói trên chứ"
-- Đúng như vậy, nhưng các nước Đông Á đã lầm nguyên nhân với hậu quả. Nguyên nhân của vụ khủng hoảng chính là chiến lược phát triển kinh tế Đông Á có thời được coi là sự kỳ diệu Đông Á. Chiến lược đó đã hết tác dụng, nhưng thay vì nhìn vào cái gốc đó, người ta lại nhìn vào cái ngọn là giới đầu tư nước ngoài, trong đó có nhiều nhà đầu tư cũng chẳng phải là Tây phương. Vấn đề ở đây là chiến lược phát triển quá chú trọng đến thị trường xuất khẩu, và rập khuôn theo quy trình sản xuất Tây phương để nước nào cũng dồn sức vào ngành chế biến công nghiệp với lực lượng lao động dồi dào và lương rẻ. Bên cạnh đó, chính quyền các nước, từ Nhật trở đi, còn tích cực yểm trợ kế sách này, và kết hợp ba yếu tố chủ động là nhà nước, doanh nghiệp và ngân hàng để thực hiện cho bằng được lối phát triển hướng ngoại như vậy, bất kể tới doanh lợi hay rủi ro. Khi có sự cấu kết, ta có nạn tham nhũng, có phản ứng kinh doanh đầy rủi ro lỗ lã mà không ai sợ vì tin rằng có chính quyền hỗ trợ ở đằng sau. Nguyên nhân chính của vụ khủng hoảng nằm ở đó và vấn đề của Đông Á ngày nay là chưa hồi phục được mức sống đã có trước 1997 mà chỉ có một nền công nghiệp “ngoài da”, quá lệ thuộc vào đầu tư quốc tế và vào thị trường xuất khẩu trong khi các cơ sở bản xứ sản xuất cho thị trường nội địa lại bị lãng quên, có khi bị chèn ép. Đó là hoàn cảnh của các tiểu doanh thương của tư nhân tại Việt Nam, hoạt động cho thị trường tiêu thụ trong nước chẳng hạn. Nói vắn tắt, người ta giàng cỗ máy kinh tế vào các yếu tố bên ngoài cho nên khi bị biến động thì lại đổ lỗi cho ngoại quốc.
Hỏi: Như vậy, ông cho rằng chiến lược phát triển Đông Á đã hết công hiệu"
-- Nếu nói thật vắn tắt thì đúng như vậy vì hai lý do chính. Về chủ quan thì sau giai đoạn tăng trưởng dài, mức sống dân cư có cải thiện nên lợi thế nhân công rẻ của thời 1970 đã không còn; về khách quan thì có sự xuất hiện của Trung Quốc với lực lượng lao động rẻ hơn và đông hơn gấp bội. Trong thời thịnh đạt của chiến lược Đông Á, các nước mới chỉ công nghiệp hóa ngoài da, là làm gia công cho giới đầu tư nước ngoài để xuất cảng ra ngoài hoặc xuất cảng cho nhau. Họ có, thí dụ như, “sản phẩm chế tạo tại Malaysia” chứ chưa có “sản phẩm của Malaysia”, do khả năng tổ chức và trình độ công nghệ bản xứ vẫn còn thấp. Khi thấy thị trường Trung Quốc rẻ hơn, giới đầu tư chuyển cơ sở vào Hoa lục là kinh tế Đông Á bị khốn đốn mà không có khả năng leo lên cái cấp sản xuất tinh tế hơn, có giá trị gia tăng lớn hơn. Tại Đông Á, may ra có Singapore, Đài Loan hay Hàn Quốc là kịp thoát khỏi tình trạng này. Ngày nay, Trung Quốc là nơi xuất khẩu nhiều sản phẩm điện tử nhất Á châu vào Mỹ, điều đó, vụ khủng hoảng 1997 có thể là dấu hiệu tiên báo mà nhiều nước lại chưa nhìn ra.
Hỏi: Và chủ nghĩa dân tộc trong hoàn cảnh này không giải quyết được gì phải không"

-- Thực ra, ta không nên bi quan quá đáng. Chủ nghĩa dân tộc đó vẫn cần thiết, nhưng nên được đặt đúng chỗ. Như tuần trước, khi nói về sự hình thành của các Chaebols Hàn Quốc hoặc các Tổng công ty 91 của Việt Nam, ta gọi đó là chủ nghĩa dân tộc đặt sai chỗ, để tiếp tục một chiến lược phát triển đã hết tác dụng. Hoặc loại khẩu hiệu chính trị của lãnh đạo nhằm đả kích xứ khác, nhất là các nước Tây phương, là theo đuổi chủ nghĩa thực dân mới hay cũ gì đó... đấy chỉ là biểu hiệu của tinh thần bài ngoại khi thất thế. Nếu đặt đúng chỗ thì chủ nghĩa dân tộc đó cần xét lại từ gốc rễ xem là làm thế nào xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống người dân và giành lại được nhiều quyền quyết định về sản xuất cho người dân trong nước, thay vì bị lệ thuộc vào đầu tư nước ngoài, vào thị trường xuất khẩu và chịu ảnh hưởng không đỡ nổi của những chu kỳ kinh doanh lên hay xuống từ ngòai. Khi kinh tế Mỹ, Nhật hay Âu châu suy trầm và mua ít hơn thì chẳng phải vì mấy xứ đó muốn bóc lột các nước nghèo và hạn chế nhập khẩu mà vì mình để bị lệ thuộc quá nặng vào các thị trường đó, trong khi xao lãng thị trường nội địa. Trường hợp này đáng chú ý cho các quốc gia có dân số đủ đông -như Việt Nam- để số cầu nội địa có thể là lực đẩy bổ sung cho thị trường xuất khẩu. Tôi thiển nghĩ là sớm muộn gì thì các xứ Đông Á cũng sẽ tìm ra một chủ nghĩa dân tộc trưởng thành về kinh tế, Thái Lan có lẽ đã đi bước đầu.
Hỏi: Ông hay nói về Thái Lan, họ có loại kinh nghiệm gì mà Việt Nam có thể học được"
-- Khi Thủ tướng Thaksin Shinawatra của Thái nhậm chức vào đầu năm 2001, ông ta cũng có khẩu hiệu sặc mùi dân tộc như Thủ tướng Mahathir, nhưng, đó là lối vận động chính trị của ông ta. Ưu điểm của Thaksin là ông ta hoạt động trong doanh trường trước khi là chính trị gia nên tính toán thực tế hơn để khỏi bị khẩu hiệu chính trị tự mê hoặc mình. Dưới sự lãnh đạo của ông, Thái Lan đã tự kiểm điểm để thấy trước tiên sự bất toàn của chiến lược Đông Á. Chiến lược đó rập khuôn quy trình sản xuất Tây phương ở một cấp thấp hơn và bán cho Tây phương loại mặt hàng rẻ hơn vì thâm dụng nhân công mà Tây phương hết muốn làm nữa. Thế rồi, tiến theo bậc thang của Tây phương, các nước cũng học luôn cả lề lối sinh hoạt của họ mà lãng quên cái gọi là bản sắc dân tộc và nhất là một thành phần dân số đông đảo không sống trong khu vực tôi xin tạm gọi là phục vụ thị trường nước ngòai. Xã hội vì vậy phát triển theo hai hướng trong ngoài, bên ngoài chạy nhanh hơn bên trong, và khi thị trường bên ngoài suy sụp, hoặc gặp cạnh tranh lớn từ phía Hoa lục chẳng hạn, kinh tế bị khủng hoảng và xã hội cũng bị biến động.
Hỏi: Từ những lượng định đó, Thái Lan đã làm những gì theo hướng nào thưa ông"
-- Tôi thiển nghĩ rằng mỗi quốc gia hay dân tộc lại có đặc tính văn hóa và kinh tế khác biệt mà mình không thể rập khuôn bắt chước. Từ nguyên tắc đó, xin nói sơ về chiến lược mà Thái Lan đang theo đuổi và nhiều xứ khác đang theo dõi để học hỏi hay thử nghiệm. Thứ nhất, họ không đả phá kinh tế thị trường và lợi ích của toàn cầu hóa hoặc đả kích giới đầu tư nước ngoài về những vấn đề của mình rồi giao cho chính quyền trách nhiệm lãnh đạo công cuộc phát triển. Điều này, Việt Nam rất nên chú ý. Thứ hai, họ nhìn từ trong ra ngoài, từ nhu cầu quốc dân ra môi trường quốc tế thay vì nhìn ngược lại, để tìm xem ưu thế của mình là gì thay vì chỉ lệ thuộc vào thị trường xuất khẩu. Thứ ba, đối chiếu các yếu tố trong ngoài, họ tìm một thế cạnh tranh tinh tế hơn là lối cạnh tranh của chiến lược cũ, là dựa trên sản phẩm đồng dạng mà rẻ hơn chẳng hạn. Thứ tư, từ lượng định đó, họ thấy là nguồn nhân lực trong nước chưa đủ tinh vi để có thể cạnh tranh hữu hiệu, cho nên giáo dục và thông tin phải là ưu tiên. Sau đó, và bước qua lãnh vực hành động, họ tìm cách khai thác những ưu thế nội tại của xứ sở, thí dụ như đặc tính văn hóa, địa dư, lịch sử, tài nguyên, tay nghề, v.v... để phát triển một số ngành nghề có khả thu thu hút ngoại tệ, kể cả du lịch văn hóa cấp cao. Từ đó, và đây là yếu tố thứ sáu, họ tìm cách đa năng hóa và đa diện hóa hoạt động sản xuất, cụ thể là mở ra hai hướng phát triển, vừa nâng cao khả năng tiêu thụ và sản xuất nội địa, vừa tinh vi hóa khả năng cạnh tranh ở bên ngoài.
Hỏi: Câu hỏi cuối ở đây, Việt Nam đã cần học hỏi kinh nghiệm này chưa và điều đó sẽ ảnh hưởng thế nào đến một chủ nghĩa dân tộc mới như ông trình bày ở trên"
-- Tôi thiển nghĩ rằng giới lãnh đạo Việt Nam tự cho mình là vô địch về chủ nghĩa dân tộc, điều tai hại là nó bị đặt sai chỗ; và sau khi đổi mới, ta vừa tân trang chủ nghĩa đó cho hiện đại hơn để góp mặt với thế giới thì môi trường thế giới đã lại thay đổi. Việc tân trang đó coi như vô hiệu và càng tăng trưởng cao trong vài năm tới là càng sớm gặp loại vấn đề các lân bang đã thấy và đang muốn sửa. Giúp cho người dân thấy trước vẫn có lợi hơn và có tinh thần dân tộc hơn là đòi người dân phải chạy theo sự lãnh đạo của mình để đâm vào những bế tắc mà các nước khác đã gặp. Nói cho gọn thì “bàn tay vô hình” của thị trường có những lợi ích nhất định của nó, nhưng sẽ không có tác dụng lâu dài nếu gặp bàn chân thô bạo của chính quyền, cứ ngoan cố đẩy dân vào những chiến lược đã bế tắc.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Trong vài tháng qua, báo chính chính thống của Mỹ đã dành cho Donald Trump khá nhiều đất diễn. Nhất cử nhất động của Trump, dù đáng hay không đáng, dù thiếu một nửa để trở thành một ổ bánh mì, vẫn được những tờ báo lớn có lịch sử hơn trăm năm dẫn lại. Với Trump, đó là một chiến thắng. Với báo chí, đó là kinh doanh, là “rating.”
Gần bốn năm trước, tại công viên Ellipse ở Washington, DC – một tổng thống đương nhiệm đứng phía sau khung kính chống đạn, mặc chiếc áo măng-tô đen, mang găng tay đen, giơ cao tay ủng hộ một đám đông bạo loạn đang chực chờ phát súng chỉ thiên từ thủ lĩnh để tấn công vào Quốc Hội lật ngược kết quả bầu cử. Đó là “một ngày của tình yêu” – theo lời mô tả của Donald Trump, người đứng đầu hôm đó – cho dù trong vòng 36 giờ, 10 người đã chết, nhiều người bị thương gồm 174 cảnh sát. Trong số nạn nhân tử vong, có một cảnh sát chết sau khi bị những kẻ bạo loạn tấn công. Chung quanh khu vực Ellipse ngày 6 Tháng Giêng đó, là những gương mặt đằng đằng sát khí. Cờ xí rợp trời – những lá cờ mang tên Trump và cờ thời kỳ nội chiến. Bốn năm sau, cũng tại công viên Ellipse, cũng là một biển người được ước chừng khoảng trên 75 ngàn người, tập trung về từ 7 giờ sáng. Trật tự, lịch sự. Khi hoàng hôn DC buông xuống cũng là lúc số người tham dự đã kéo dài đến tận National Museum of African...
Chính quyền CSVN và Ủy ban Tự do Tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ (The United States Commission on International Religious Freedom / USCIRF) đã có tầm nhìn tương phản về quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam...
17 ngày nữa, cuộc tranh cử tổng thống Mỹ bước vào kết thúc. Ai thắng? Ai bại? Đời sống sẽ được trở lại bình thường không bị ám ảnh của truyền thông lôi kéo, không bị áp lực của đảng phái thuyết phục. Thật là đáng mừng.Không chắc. Nếu ông Trump thắng, cuộc giao chuyển quyền lực tuy không vừa ý, nhưng chắc sẽ xuôi qua bình yên. Nếu ông Trump thua, đây mới là vấn nạn. Đến giờ phút này, ai cũng biết, nếu ông Trump không được làm tổng thống thì sẽ ứng với câu: Được làm vua, thua làm giặc. Chuyện này đã xảy ra trong lịch sử: Ngày 6 tháng 1, 2021. Và căn cứ theo những lời ông tuyên bố khi vận động tranh cử. Chính quyền Biden, FBI, nội an, cảnh sát, quân đội, có chuẩn bị gì chưa? Hay chỉ có ông Howard Stern tuyên bố: “Tôi không đồng ý với Trump về mặt chính trị, tôi không nghĩ ông ta nên đến gần Nhà Trắng. Tôi không ghét ông. Tôi ghét những người bỏ phiếu cho ông. Tôi nghĩ họ ngu ngốc. Tôi ghét. Tôi sẽ thành thật với bạn, tôi không tôn trọng bạn," (Fox News.)
Chỉ còn vỏn vẹn chưa đầy ba tuần nữa là ngày bầu cử. Cho đến hôm nay, ai nói, cũng đã nói. Ai làm, cũng đã làm. Nói nhiều hay ít, và làm nhiều hay ít, cũng đã thể hiện rõ ràng. Trừ khi, như một cựu ký giả của tờ Sóng Thần trước năm 1975, hiện đang sinh sống ở Virginia, nói rằng: “Có thể họ không lên tiếng trước công chúng, nhưng ngày bầu cử, lá phiếu của họ dành cho đảng đối lập.” Vị cựu nhà báo này muốn nói đến cựu tổng thống Hoa Kỳ, George W Bush, vị tổng thống duy nhất thuộc đảng Cộng hoà còn tại thế.
Hoa Kỳ luôn được tôn vinh là một cường quốc tích cực tham gia trong mọi sinh hoạt chính trị quốc tế, nhưng lịch sử ngoại giao đã chứng minh ngược lại: Hoa Kỳ từng theo đuổi nguyên tắc bất can thiệp và cũng đã nhiều lần dao động giữa hai chủ thuyết quốc tế và cô lập. Trong việc thực thi chính sách đối ngoại trong thế kỷ XX, Hoa Kỳ mới thực sự trực tiếp định hình cho nền chính trị toàn cầu, lãnh đạo thế giới tự do và bảo vệ nền an ninh trật tự chung. Nhưng đối với châu Âu, qua thời gian, vì nhiều lý do khác nhau, càng ngày Hoa Kỳ càng tỏ ra muốn tránh xa mọi ràng buộc càng tốt.
Tiếng Việt không ít những thành ngữ (ví von) liên hệ đến đặc tính của nhiều con vật hiền lành và quen thuộc: ăn như heo, ăn như mèo, nhát như cáy, gáy như dế, khóc như ri, lủi như trạch, chạy như ngựa, bơi như rái, khỏe như voi, hỗn như gấu, chậm như rùa, lanh như tép, ranh như cáo, câm như hến …Dù có trải qua thêm hàng ngàn hay hàng triệu năm tiến hóa, và thích nghi để sinh tồn chăng nữa – có lẽ – sóc vẫn cứ nhanh, sên vẫn cứ yếu, cú vẫn cứ hôi, lươn vẫn cứ trơn, đỉa vẫn cứ giai, thỏ vẫn cứ hiền, cá vẫn cứ tanh, chim vẫn cứ bay, cua vẫn cứ ngang (thôi) nhưng hến thì chưa chắc đã câm đâu nha.
Khi thiên tai đổ xuống, thảm họa xảy ra, và con người với khả năng chống đỡ có giới hạn, thì những gì nhân loại có thể làm là cứu nhau. Ngược lại với nguyên tắc tưởng chừng như bất di bất dịch của một thời đại mà con người luôn hướng đến hòa bình và lương thiện, lại là các thuyết âm mưu tạo ra để lan truyền thù ghét và mất niềm tin vào chính quyền đương nhiệm. Đại dịch Covid-19 vĩnh viễn là sự thật của lịch sử Mỹ, trong triều đại của Donald Trump. Tòa Bạch Ốc của Trump lúc ấy, qua lời mô tả của những nhân viên trong ngày dọn dẹp văn phòng làm việc để bắt đầu bước vào giai đoạn “work from home” là “ngôi nhà ma.” Giữa lúc số người chết tăng theo từng giây trên khắp thế giới thì Trump vẫn điên cuồng xoay chuyển “tứ phương tám hướng” để kéo người dân quay về một góc khác của đại dịch, theo ý của Trump: “Covid không nguy hiểm.”
Mặc dù các bác sĩ tâm thần có bổn phận bảo mật các thông tin sức khỏe tâm thần do bệnh nhân tiết lộ, nhưng hầu hết các tiểu bang tại Hoa Kỳ đều có luật bắt buộc hoặc cho phép bác sĩ tâm thần tiết lộ thông tin bí mật khi bệnh nhân có triển vọng gây tổn hại cho cộng đồng...
Trong tuần lễ cuối cùng của chiến dịch tranh cử tổng thống vào năm 1980 giữa Tổng Thống Đảng Jimmy Carter (Dân Chủ) và ứng cử viên Ronald Reagan (Cộng Hòa), hai ứng cử viên đã có một cuộc tranh luận duy nhất vào ngày 28 tháng 10. Trong cuộc tranh luận, Reagan đã nêu ra một trong những câu hỏi quan trọng nhất trong mọi thời đại: “Hôm nay quý vị có khá hơn bốn năm trước hay không?” Câu trả lời của Carter là “KHÔNG." Cùng với một số lý do không kém quan trọng khác, số phiếu của ông đã giảm xuống vào những ngày quan trọng cuối cùng của chiến dịch tranh cử. Reagan đã giành được số phiếu phổ thông lớn và chiến thắng trong cuộc bầu cử.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.