Hôm nay,  

Một Chủ Nghĩa Dân Tộc Mới Tại Á Châu?

7/1/200300:00:00(View: 25926)
Cách đây sáu năm, cuộc khủng hoảng kinh tế Đông Á khởi đầu với vụ biến động tài chính mùng hai tháng Bảy năm 1997 tại Thái Lan. Ngày nay, cả khối Đông Á chưa hoàn toàn phục hồi, nhưng bài học của cuộc khủng hoảng có thể dẫn tới một chủ nghĩa dân tộc mới cho các nước liên hệ.
Nhắc lại biến cố này, Đài RFA đã trao đổi cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa về viễn ảnh của một chủ nghĩa dân tộc mới về kinh tế....
Hỏi: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, khi cuộc khủng hoảng kinh tế bùng nổ tại Đông Á, sáu năm về trước vào đúng ngày này, Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohammad kết án giới đầu tư quốc tế là gây ra biến động tài chính tại Đông Nam Á. Tuần qua, cũng ông Mahathir đã lại đả kích Tây phương về tội đã qua là xâm lược và bành trướng toàn cầu. Vì vậy giới quan sát quốc tế cho rằng một trong những hậu quả của cuộc khủng hoảng Đông Á là sự tái xuất hiện của chủ nghĩa dân tộc tại Á châu, điều đó đúng hay sai"
-- Thủ tướng Mahathir phát biểu như vậy trong Đại hội đảng hàng năm của ông, nên người ta cần đặt lời phát biểu của ông vào khung cảnh đó. Nói chung, nhiều giới lãnh đạo ưa tìm ra đối tượng ngoại quốc để đổ lỗi về các vấn đề mình gặp. Khi Malaysia và nói chung các xứ Đông Nam và Đông Bắc Á phát triển nhanh vượt bực nhờ đầu tư nước ngoài thì họ dễ tạm quên tinh thần bài ngoại; khi gặp khó khăn thì tinh thần tiêu cực đó được khoác áo chủ nghĩa dân tộc để tranh thủ hậu thuẫn của người dân và khỏa lấp trách nhiệm của nhà nước. Đây là một thái độ không có lợi ích thực tế cho các nước trong khu vực.
Hỏi: Nhưng thực tế cho thấy trong vụ khủng hoảng 1997-1998 Đông Á có bị chấn động bởi những yếu tố ngoại nhập và điều đó mới giải thích phản ứng bài ngoại nói trên chứ"
-- Đúng như vậy, nhưng các nước Đông Á đã lầm nguyên nhân với hậu quả. Nguyên nhân của vụ khủng hoảng chính là chiến lược phát triển kinh tế Đông Á có thời được coi là sự kỳ diệu Đông Á. Chiến lược đó đã hết tác dụng, nhưng thay vì nhìn vào cái gốc đó, người ta lại nhìn vào cái ngọn là giới đầu tư nước ngoài, trong đó có nhiều nhà đầu tư cũng chẳng phải là Tây phương. Vấn đề ở đây là chiến lược phát triển quá chú trọng đến thị trường xuất khẩu, và rập khuôn theo quy trình sản xuất Tây phương để nước nào cũng dồn sức vào ngành chế biến công nghiệp với lực lượng lao động dồi dào và lương rẻ. Bên cạnh đó, chính quyền các nước, từ Nhật trở đi, còn tích cực yểm trợ kế sách này, và kết hợp ba yếu tố chủ động là nhà nước, doanh nghiệp và ngân hàng để thực hiện cho bằng được lối phát triển hướng ngoại như vậy, bất kể tới doanh lợi hay rủi ro. Khi có sự cấu kết, ta có nạn tham nhũng, có phản ứng kinh doanh đầy rủi ro lỗ lã mà không ai sợ vì tin rằng có chính quyền hỗ trợ ở đằng sau. Nguyên nhân chính của vụ khủng hoảng nằm ở đó và vấn đề của Đông Á ngày nay là chưa hồi phục được mức sống đã có trước 1997 mà chỉ có một nền công nghiệp “ngoài da”, quá lệ thuộc vào đầu tư quốc tế và vào thị trường xuất khẩu trong khi các cơ sở bản xứ sản xuất cho thị trường nội địa lại bị lãng quên, có khi bị chèn ép. Đó là hoàn cảnh của các tiểu doanh thương của tư nhân tại Việt Nam, hoạt động cho thị trường tiêu thụ trong nước chẳng hạn. Nói vắn tắt, người ta giàng cỗ máy kinh tế vào các yếu tố bên ngoài cho nên khi bị biến động thì lại đổ lỗi cho ngoại quốc.
Hỏi: Như vậy, ông cho rằng chiến lược phát triển Đông Á đã hết công hiệu"
-- Nếu nói thật vắn tắt thì đúng như vậy vì hai lý do chính. Về chủ quan thì sau giai đoạn tăng trưởng dài, mức sống dân cư có cải thiện nên lợi thế nhân công rẻ của thời 1970 đã không còn; về khách quan thì có sự xuất hiện của Trung Quốc với lực lượng lao động rẻ hơn và đông hơn gấp bội. Trong thời thịnh đạt của chiến lược Đông Á, các nước mới chỉ công nghiệp hóa ngoài da, là làm gia công cho giới đầu tư nước ngoài để xuất cảng ra ngoài hoặc xuất cảng cho nhau. Họ có, thí dụ như, “sản phẩm chế tạo tại Malaysia” chứ chưa có “sản phẩm của Malaysia”, do khả năng tổ chức và trình độ công nghệ bản xứ vẫn còn thấp. Khi thấy thị trường Trung Quốc rẻ hơn, giới đầu tư chuyển cơ sở vào Hoa lục là kinh tế Đông Á bị khốn đốn mà không có khả năng leo lên cái cấp sản xuất tinh tế hơn, có giá trị gia tăng lớn hơn. Tại Đông Á, may ra có Singapore, Đài Loan hay Hàn Quốc là kịp thoát khỏi tình trạng này. Ngày nay, Trung Quốc là nơi xuất khẩu nhiều sản phẩm điện tử nhất Á châu vào Mỹ, điều đó, vụ khủng hoảng 1997 có thể là dấu hiệu tiên báo mà nhiều nước lại chưa nhìn ra.
Hỏi: Và chủ nghĩa dân tộc trong hoàn cảnh này không giải quyết được gì phải không"

-- Thực ra, ta không nên bi quan quá đáng. Chủ nghĩa dân tộc đó vẫn cần thiết, nhưng nên được đặt đúng chỗ. Như tuần trước, khi nói về sự hình thành của các Chaebols Hàn Quốc hoặc các Tổng công ty 91 của Việt Nam, ta gọi đó là chủ nghĩa dân tộc đặt sai chỗ, để tiếp tục một chiến lược phát triển đã hết tác dụng. Hoặc loại khẩu hiệu chính trị của lãnh đạo nhằm đả kích xứ khác, nhất là các nước Tây phương, là theo đuổi chủ nghĩa thực dân mới hay cũ gì đó... đấy chỉ là biểu hiệu của tinh thần bài ngoại khi thất thế. Nếu đặt đúng chỗ thì chủ nghĩa dân tộc đó cần xét lại từ gốc rễ xem là làm thế nào xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống người dân và giành lại được nhiều quyền quyết định về sản xuất cho người dân trong nước, thay vì bị lệ thuộc vào đầu tư nước ngoài, vào thị trường xuất khẩu và chịu ảnh hưởng không đỡ nổi của những chu kỳ kinh doanh lên hay xuống từ ngòai. Khi kinh tế Mỹ, Nhật hay Âu châu suy trầm và mua ít hơn thì chẳng phải vì mấy xứ đó muốn bóc lột các nước nghèo và hạn chế nhập khẩu mà vì mình để bị lệ thuộc quá nặng vào các thị trường đó, trong khi xao lãng thị trường nội địa. Trường hợp này đáng chú ý cho các quốc gia có dân số đủ đông -như Việt Nam- để số cầu nội địa có thể là lực đẩy bổ sung cho thị trường xuất khẩu. Tôi thiển nghĩ là sớm muộn gì thì các xứ Đông Á cũng sẽ tìm ra một chủ nghĩa dân tộc trưởng thành về kinh tế, Thái Lan có lẽ đã đi bước đầu.
Hỏi: Ông hay nói về Thái Lan, họ có loại kinh nghiệm gì mà Việt Nam có thể học được"
-- Khi Thủ tướng Thaksin Shinawatra của Thái nhậm chức vào đầu năm 2001, ông ta cũng có khẩu hiệu sặc mùi dân tộc như Thủ tướng Mahathir, nhưng, đó là lối vận động chính trị của ông ta. Ưu điểm của Thaksin là ông ta hoạt động trong doanh trường trước khi là chính trị gia nên tính toán thực tế hơn để khỏi bị khẩu hiệu chính trị tự mê hoặc mình. Dưới sự lãnh đạo của ông, Thái Lan đã tự kiểm điểm để thấy trước tiên sự bất toàn của chiến lược Đông Á. Chiến lược đó rập khuôn quy trình sản xuất Tây phương ở một cấp thấp hơn và bán cho Tây phương loại mặt hàng rẻ hơn vì thâm dụng nhân công mà Tây phương hết muốn làm nữa. Thế rồi, tiến theo bậc thang của Tây phương, các nước cũng học luôn cả lề lối sinh hoạt của họ mà lãng quên cái gọi là bản sắc dân tộc và nhất là một thành phần dân số đông đảo không sống trong khu vực tôi xin tạm gọi là phục vụ thị trường nước ngòai. Xã hội vì vậy phát triển theo hai hướng trong ngoài, bên ngoài chạy nhanh hơn bên trong, và khi thị trường bên ngoài suy sụp, hoặc gặp cạnh tranh lớn từ phía Hoa lục chẳng hạn, kinh tế bị khủng hoảng và xã hội cũng bị biến động.
Hỏi: Từ những lượng định đó, Thái Lan đã làm những gì theo hướng nào thưa ông"
-- Tôi thiển nghĩ rằng mỗi quốc gia hay dân tộc lại có đặc tính văn hóa và kinh tế khác biệt mà mình không thể rập khuôn bắt chước. Từ nguyên tắc đó, xin nói sơ về chiến lược mà Thái Lan đang theo đuổi và nhiều xứ khác đang theo dõi để học hỏi hay thử nghiệm. Thứ nhất, họ không đả phá kinh tế thị trường và lợi ích của toàn cầu hóa hoặc đả kích giới đầu tư nước ngoài về những vấn đề của mình rồi giao cho chính quyền trách nhiệm lãnh đạo công cuộc phát triển. Điều này, Việt Nam rất nên chú ý. Thứ hai, họ nhìn từ trong ra ngoài, từ nhu cầu quốc dân ra môi trường quốc tế thay vì nhìn ngược lại, để tìm xem ưu thế của mình là gì thay vì chỉ lệ thuộc vào thị trường xuất khẩu. Thứ ba, đối chiếu các yếu tố trong ngoài, họ tìm một thế cạnh tranh tinh tế hơn là lối cạnh tranh của chiến lược cũ, là dựa trên sản phẩm đồng dạng mà rẻ hơn chẳng hạn. Thứ tư, từ lượng định đó, họ thấy là nguồn nhân lực trong nước chưa đủ tinh vi để có thể cạnh tranh hữu hiệu, cho nên giáo dục và thông tin phải là ưu tiên. Sau đó, và bước qua lãnh vực hành động, họ tìm cách khai thác những ưu thế nội tại của xứ sở, thí dụ như đặc tính văn hóa, địa dư, lịch sử, tài nguyên, tay nghề, v.v... để phát triển một số ngành nghề có khả thu thu hút ngoại tệ, kể cả du lịch văn hóa cấp cao. Từ đó, và đây là yếu tố thứ sáu, họ tìm cách đa năng hóa và đa diện hóa hoạt động sản xuất, cụ thể là mở ra hai hướng phát triển, vừa nâng cao khả năng tiêu thụ và sản xuất nội địa, vừa tinh vi hóa khả năng cạnh tranh ở bên ngoài.
Hỏi: Câu hỏi cuối ở đây, Việt Nam đã cần học hỏi kinh nghiệm này chưa và điều đó sẽ ảnh hưởng thế nào đến một chủ nghĩa dân tộc mới như ông trình bày ở trên"
-- Tôi thiển nghĩ rằng giới lãnh đạo Việt Nam tự cho mình là vô địch về chủ nghĩa dân tộc, điều tai hại là nó bị đặt sai chỗ; và sau khi đổi mới, ta vừa tân trang chủ nghĩa đó cho hiện đại hơn để góp mặt với thế giới thì môi trường thế giới đã lại thay đổi. Việc tân trang đó coi như vô hiệu và càng tăng trưởng cao trong vài năm tới là càng sớm gặp loại vấn đề các lân bang đã thấy và đang muốn sửa. Giúp cho người dân thấy trước vẫn có lợi hơn và có tinh thần dân tộc hơn là đòi người dân phải chạy theo sự lãnh đạo của mình để đâm vào những bế tắc mà các nước khác đã gặp. Nói cho gọn thì “bàn tay vô hình” của thị trường có những lợi ích nhất định của nó, nhưng sẽ không có tác dụng lâu dài nếu gặp bàn chân thô bạo của chính quyền, cứ ngoan cố đẩy dân vào những chiến lược đã bế tắc.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tổng thống Mỹ Donald Trump đang đe dọa áp đặt mức thuế cao hơn nữa đối với hàng hóa nhập khẩu từ Liên minh châu Âu (EU), đặc biệt là dược phẩm. Thông qua các vòng đàm phán mới, EU hiện đang nỗ lực tìm cách ngăn chặn nguy cơ này. Tuy nhiên, triển vọng đạt được thỏa thuận vẫn rất mong manh, trong khi mức thiệt hại kinh tế dự kiến đối với EU có thể lên đến khoảng 750 tỷ đô la, một con số khổng lồ.
Rạng sáng thứ Bảy, tại Rafah, một em bé 12 tuổi – chưa xác định tên – bị bắn chết ngay tại chỗ hôm 12 tháng 7, khi em đang cố len lỏi tiến lên rào sắt để nhận phần lương thực cho gia đình. Cùng hôm đó, hơn ba mươi người khác gục xuống giữa bụi cát và khói đạn, trong lúc chen chúc tại điểm phát thực phẩm của một tổ chức mang tên Gaza Humanitarian Foundation (GHF).Trước đó, tại trại Nuseirat, sáu trẻ em – có em chỉ độ sáu tuổi – trúng pháo kích thiệt mạng khi đang hứng nước vào ca. Trong tay các em không có đá, không có súng… chỉ có chiếc bình nhựa, vài mẩu bánh mì chưa kịp đem về nhà. Giữa cảnh Gaza bị phong toả hoàn toàn, dân chúng đói khát, bệnh tật, kiệt sức… thì chính phủ Hoa Kỳ chọn rót ba mươi triệu Mỹ kim cho GHF – một tổ chức tư nhân, lập ra vội vã, không kinh nghiệm, không kế hoạch, không kiểm toán, không ai giám sát.
Có một câu hỏi đã ám ảnh tôi suốt gần mười năm: Làm sao mà một nửa nước Mỹ nhìn Donald Trump mà không thấy ông ta đáng ghê tởm về mặt đạo đức? Một người luôn nói dối, gian lận, phản bội, tàn nhẫn và tham nhũng một cách công khai như vậy mà hơn 70 triệu người vẫn chấp nhận ông ta, thậm chí còn ngưỡng mộ. Việc gì đã khiến cả một xã hội trở nên chai lì về mặt đạo đức như vậy? Để tôi kể cho bạn nghe một câu chuyện. Câu chuyện này, phần lớn dựa trên tư tưởng của nhà triết gia đạo đức Alasdair MacIntyre, một người mới qua đời vào tháng Năm vừa rồi, thọ 94 tuổi. Ông là một trong những nhà trí thức lớn hiếm hoi dám đào tận gốc sự suy đồi đạo lý của thế giới Tây phương, và của nước Mỹ hiện nay.
Donald Trump không giống như các vị tổng thống tiền nhiệm. Ông từng úp mở chuyện tái tranh cử nhiệm kỳ thứ ba, khiến không ít đối thủ phải giật mình. Nhưng trước mắt, Trump đang phải đối mặt với một quy luật lịch sử đã từng làm khó các vị Tổng thống khác: lời nguyền nhiệm kỳ hai. Từ trước đến nay, có đến 21 Tổng thống Mỹ bước vào nhiệm kỳ hai, nhưng không một ai đạt được thành tựu tương đương như giai đoạn đầu tiên. Thành tích nhiệm kỳ hai thường tụt dốc – từ thiếu sức sống, mờ nhạt cho đến những giai đoạn đầy biến động hoặc thậm chí thảm khốc. Người dân không còn hài lòng, tổng thống bắt đầu mệt mỏi, và không còn hướng đi rõ ràng cho tương lai.
Trong bài viết “Thế thời không phải thế” đăng trên Việt Báo ngày 4 tháng 4 về sau 100 ngày hành xử của tổng thống Trump (*), tôi có dự đoán rằng bên Dân Chủ sẽ giữ thế im lặng nhiều hơn lên tiếng ồn ào chống những việc làm của ông Trump và đảng Cộng Hòa vì muốn ông Trump tự sa lầy dẫn đến hậu quả đảng Cộng Hòa sẽ bị mất ghế, mất chủ quyền đa số trong lưỡng viện quốc hội quốc gia. Cho đến nay gần sáu tháng tổng thống, ông Trump vẫn tiếp tục gây hấn với thế giới và một số lớn thành phần dân chúng Mỹ và đảng đối lập vẫn giữ sự im lặng, thỉnh thoảng vài người lên tiếng một cách yếu ớt, kiểu Tôn Tẩn đối phó với Bàng Quyên.
Ngày 12/6/2025, từ văn phòng làm việc tại gia của mình ở Washington DC, ký giả, xướng ngôn viên kỳ cựu gần 28 năm của ABC News, Terry Moran loan báo đơn giản: “Có lẽ các bạn đã biết, tôi không thuộc về nơi đó nữa. Tôi sẽ ở đây, tại nền tảng Substack này. Có rất nhiều việc mà tất cả chúng ta cần phải làm trong thời gian đất nước quá nhiều vết nứt. Tôi sẽ tiếp tục tường thuật, phỏng vấn, để gửi đến các bạn sự thật, với tư cách là một nhà báo độc lập. Tôi là một ký giả độc lập.” Từ hôm đó, Terry Moran chính thức bước ra khỏi “luật chơi” của truyền thông dòng chính. Và cũng ngay ngày hôm đó, Terry Moran là danh khoản xếp thứ hạng đầu tiên (#1) về số người theo dõi (follower), số “subscriber” trả phí theo tháng và năm.
Ngày 2/7/2025 Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump thông báo ngắn gọn trên mạng xã hội Truth rằng Việt-Mỹ đã thỏa thuận để Hoa Kỳ áp thuế 20% lên hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam và 40% trên hàng hóa trung chuyển qua Việt Nam; ngược lại Việt Nam đánh thuế 0% vào hàng hóa mua của Mỹ...
Ngài tự nhận trọn đời ngài chỉ là một nhà sư đơn giản, nhưng sóng gió tiền định đã đưa ngài vào ngôi vị Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 để gánh vác chức lãnh đạo cả đạo và đời cho dân tộc Tây Tạng từ khi ngài còn thơ ấu. Ngài từ những ngày mới lớn, miệt mài tu học theo lời Đức Phật dạy về hạnh từ bi và trí tuệ, nhưng từ khi chưa đủ tuổi thành niên đã chứng kiến khắp trời khói lửa chinh chiến để tới lúc phải đào thoát, vượt nhiều rặng núi Hy Mã Lạp Sơn để xin tỵ nạn tại Ấn Độ.
Zohran Mamdani tuyên bố tranh cử thị trưởng New York vào tháng 10/2024. Khi đó, phần lớn New York vẫn không biết đến vị lập pháp tiểu bang 33 tuổi này là ai. Ngày 1/7/2025, Zohran Mamdani chính thức đánh bại cựu Thống đốc Andrew Cuomo, chiến thắng vòng bầu cử sơ bộ cuộc tranh cử thị trưởng New York vào tháng 11/2025.
Tồn tại qua hơn hai thế kỷ, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ chưa bao giờ là một cánh cửa vô tri. Mỗi nhiệm kỳ Tòa để lại một dấu ấn ảnh hưởng đến đời sống người dân. Có nhiệm kỳ, Roe v. Wade1 mất hiệu lực, tòa cắt quyền phá thai khỏi tay người phụ nữ, coi như món nợ trả về từng tiểu bang, tự lo tự liệu. Có nhiệm kỳ, cánh cửa Affirmative Action2 sập lại, đám trẻ da màu nghèo khỏi cơ hội cầu tiến. Có nhiệm kỳ, Tòa thả lỏng súng đạn, cãi vã sân trường cũng đủ gây đổ máu3. Nhưng cũng đã có những nhiệm kỳ Tòa đứng thẳng lưng, bảo vệ người dân buộc Bạch Ốc Nixon phơi ra hồ sơ mật với Pentagon Papers
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.