Hôm nay,  

Saigon Mới Của Chúng Ta

03/02/200700:00:00(Xem: 13764)
Saigon Mới Của Chúng Ta

LS Dina Nguyễn Hoàng Linh.

 Ngày 1 Tháng 2 Năm 2007

Kính Thưa Quý Đồng Hương,

Khi tôi đến Quận Cam vào năm 1977 thì chúng ta chỉ có một chợ Việt Nam ở đường Magnolia, một trung tâm người Việt và một nhà hàng trên đường First, và sau đó thêm được khu Bolsa Mini Mall.  Tôi nhớ mỗi khi chúng ta có tổ chức Tết, Quốc Hận 30 tháng 4, hoặc Trung Thu thì có những xe của người sắc tộc khác bấm còi giận dữ, người trong xe giơ tay chỉ trích, và la ó những câu như “Go back to where you came from!”  Trong chúng ta có người la lại, có người làm ngơ, và cũng có người chỉ đứng nhìn… nhưng tất cả chúng ta lại tiếp tục đồng đều, đoàn kết, và tập trung xây dựng nơi chúng ta gọi là Little Saigon. Nói chung là “chó sủa mặc chó đoàn lữ hành cứ đi”.  Qua bao nhiêu lần giấy phép xin xây dựng bị từ chối, qua bao nhiêu sự chống đối của những nghị viên trong thành phố, chúng ta vẫn không ngần ngại và vẫn lần lượt, có thể nói là thi đua, xây cất và cư ngụ tại nơi này. 

Rồi chợt một hôm tôi thấy trên TV có vài ngàn người biểu tình ở khu Bolsa Mini Mall. Đây là lần đầu tiên tôi biết đến Trần Trường và lần đầu tiên tôi thấy cộng đồng chúng ta biểu dương thế lực của mình. Lúc ấy là năm 1999.  Tôi phân vân tại sao một người trẻ như Trần Trường lại có những hành động trái ngược với những gì tôi đã được dạy bảo"

Theo tôi nhận xét, chúng ta đã định cư ở nơi này gần 24 năm khi chuyện này xảy ra, nhưng những dân tộc khác và ngay cả những chính quyền địa phương cũng vẫn chưa hiểu được sự quan tâm của chúng ta. Cảnh sát thành phố Westminster đã bắt giam vài người biểu tình tối hôm đó, nhưng sau khi có sự can thiệp của những người lãnh đạo (Việt) trẻ thì ty cảnh sát đã tha bổng những người này.

Trong những thời gian qua, chúng ta không những tranh đấu cho chúng ta mà còn tranh đấu cho cả những người Việt tị nạn khắp nơi và đòi tự do nhân quyền cho những người kém may mắn ở Việt Nam.  10 năm trước, tôi thắc mắc tại sao chúng ta phải quan tâm đến những vấn đề ngoài phạm vi địa phương, nhất là những vấn đề bắt nguồn từ Việt Nam. 

Việt Nam đâu còn là đất nước như chúng ta mong muốn" Nhưng mỗi năm trôi qua thì tôi càng nhận thức sự việc rõ ràng hơn.   Chúng ta giúp thuyền nhân trong chương trình Boat People SOS và cựu quân nhân trong chương trình HO, và giờ này họ đã là một thành phần của người Việt tị nạn, giúp cho số người của chúng ta đông đảo hơn. Chúng ta chống đối sự liên lạc hoặc đón tiếp Cộng Sản Việt Nam vào quê hương mới (Hoa Kỳ), vì chúng ta muốn bảo vệ tiếng nói của người Việt tị nạn và đồng thời dành cơ hội phát triển kinh tế về phần chúng ta. Chúng ta khuyến khích, thúc đẩy, dòi hỏi tự do nhân quyền và tự do dân chủ tại Việt Nam vì cuối cùng những sự thay đổi tốt đẹp đó sẽ mang lại một nền kinh tế tự do vững mạnh, và điều đó sẽ có lợi cho những nhà kinh doanh của chúng ta.  

Dĩ nhiên tôi biết vấn đề còn sâu thấm hơn nữa trong tâm hồn của những người cựu chiến sĩ Quân Lực VNCH. Viết đến đây tôi thật sự không cầm được nước mắt, những đau khổ của những người lính VNCH luôn luôn hiện diện trong suy nghĩ của tôi, luôn luôn có mặt trong lòng tôi; tôi đã chứng kiến hình ảnh những anh hùng một thời giờ thành phế binh hiện đang lê lết tranh đấu cho cuộc sống hàng ngày ở Việt Nam, tôi đã nghe kể những chuyện về biết bao nhiêu tù nhân chính trị bị hành hạ tinh thần, sống nhiều năm không đủ miếng ăn, dầm mưa giãi nắng, lao động bất kể năng lực, và sống chỉ dựa vào niềm hy vọng mỏng manh như một sợi chỉ. Nhờ sức mạnh tinh thần, sự ủng hộ nhiệt tình của những mạnh thường quân và sự đoàn kết chung, chúng ta đã gây áp lực để hoàn thành Tượng Đài Chiến Sĩ trong TP Westminster nhằm ghi ơn và tưởng niệm các anh hùng đã hy sinh cho đất nước, để chúng ta có được tự do. 

Đến đây tôi muốn hướng về tương lai của chúng ta ở đất nước mới.  

Quả thật chúng ta đã đi được một khoảng đường dài trong thời gian rất ngắn, những người lãnh đạo do chúng ta đề cử đã tranh đấu để thúc đẩy đưa chương trình Việt Ngữ vào những trường trung học trong học khu Westminster và Garden Grove. Họ cũng đã góp tay giúp thành lập nhiều trường để dạy Việt Ngữ, Văn Hóa Việt Nam, và Lịch Sử Việt Nam mỗi cuối tuần cho hằng ngàn trẻ em gốc Việt.  Chúng ta đã đưa được 12 người Mỹ gốc Việt vào guồng máy chính trị Mỹ và có nhiều người Mỹ gốc Việt khác đã được bổ nhiệm vào những chức vụ quan trọng của liên bang và tiểu bang. Người Việt chúng ta đã chiếm hơn 50% khu vực kinh doanh của thành phố Westminster và hiện đang lan vào khu vực kinh doanh của Garden Grove.  Theo thống kê, hơn 30% người Việt chúng ta cư ngụ  trong thành phố Westminster và hơn 40% trong Garden Grove; theo đó, không có lý do nào mà quyền lợi của chúng ta vẫn bị hạn chế.  Một thí dụ thực tế về việc quyền lợi chúng ta bị xâm phạm là quyền tự do tôn giáo, Hội Đồng Thành Phố Garden Grove đã dựa trên những lý do không chánh đáng để bác bỏ thỉnh nguyện của bao nhiêu Phật tử xin được phép xây một ngôi chùa nằm trên đường Chapman. Sau 31 năm, chúng ta vẫn phải đương đầu với bao khó khăn, vẫn phải cực lực tranh đấu cho những quyền lợi căn bản của chúng ta.  Vì vấn đề này đã được phổ biến rỗng rãi trong những tuần vừa qua, tôi xin miễn nhắc lại và xin được phép nói qua một đề tài không kém phần quan trong. 

Khi tôi dẫn các con đi chơi trong khu Phước Lộc Thọ, tôi có gặp nhiều người sống ngoài đường “homeless”.  Trong những người đó tôi có quen 1 người từ lúc 12 tuổi, và biết đến một cô trước đây là ca sĩ nổi tiếng. 

Tôi hỏi người bạn tại sao anh ta không đi vào nhà tạm trú shelter để được giúp đỡ hoà mình trở lại với xã hội, anh nói với tôi “Ở khu này không có shelter thích hợp cho những người Việt Nam”.  Hỏi thêm thì tôi mới biết những shelters ở rất xa khu Việt Nam và không được an toàn cho lắm vì họ phải ở chung với những người có tiền án phạm tội hoặc có bệnh tâm thần. Anh năn nỉ tôi kiếm giùm cho anh việc làm, nhưng chỉ part time thôi vì sức khoẻ anh ta không được tốt do ăn uống bất thường và đêm ngủ dưói sương, dưới mưa lạnh lẽo mùa Đông.  Tôi lập tức điện thoại cho vài nhà shelters, nơi nào cũng rất xa khu Việt Nam, và nơi nào cũng không có đủ giường. Tôi rất thất vọng và buồn, càng cảm thấy đây là một trong những lý do tôi quyết định phải dấn thân vào chính trị và phải đoàn kết với những người tôi biết không những có khả năng mà còn cùng chí hướng, hiểu biết và có nhiệt tình với chúng ta.   

Có vài người bạn đồng nghiệp và lãnh đạo nói với tôi là “Hãy âm thầm đứng sau lưng người mình ủng hộ”. Tôi rất ngạc nhiên về lời khuyên này nhưng không phản bác ngay vì kính nể sự đóng góp ý  kiến của họ.

Tôi đã suy nghĩ rất kỹ về vấn đề này. Điều thứ nhất, tôi tự hỏi tại sao chính trị Mỹ lại có hai phe chính là đảng Cộng Hòa và Dân Chủ, và mỗi khi tranh cử thì một trong những người được chọn ra từ hai đảng này sẽ đắc cử"  Có phải họ rất mạnh vì những thành viên của họ kết hợp lại có tư tưởng giống nhau" Còn vị trí chúng ta ở đâu khi khi bị loại ra từ hai đảng chính này" Chúng ta có thể nương tựa vào ai"

Điều thứ nhì, là một người đại diện cho quần chúng, nếu không có can đảm để tranh đấu cho lẽ phải, lợi ích, hoặc những điều hay thì làm sao tôi có thể bảo vệ quyền lợi của chúng ta"  Chúng ta không còn là Bolsa Mini Mall, Phước Lộc Thọ, hoặc Little Saigon…ngày nay chúng ta là một khu vực lớn, và là một Saigon mới.  Hết tất cả anh hùng của chúng ta đã đến nơi đây, hết tất cả những người trí thức của chúng ta đã đến nơi đây,  và nơi đây là cái lò rèn luyện cho các con em học giỏi, có tài cao để tiến bước lên vào giòng chính của xã hội Mỹ nhưng không mất đi sự quan tâm về văn hóa và truyền thống của người Mỹ gốc Việt. 

Trong những năm qua, tôi rất hân hạnh đã có cơ hội làm việc với một số người lãnh đạo, ủy viên, và dân cử Mỹ gốc Việt. Sự đoàn kết của họ đã cho tôi niềm hy vọng về sự phát triển tinh thần, xã hội, văn hóa, kinh tế, và năng lực của chúng ta.

Vào tháng 5, 2006, LS Nguyễn Hoàng Dũng đã tạo cho tôi cơ hội đến Tòa Bạch Ốc gặp những người phụ nữ đang giữ vài trò lãnh đạo và chính trị Á Châu và Thái Bình Dương.  Sự gặp gỡ này đã giúp tôi hiểu biết thêm về công việc của những hội đoàn bất vụ lợi và những công ty rất thành công bởi những người phụ nữ Á Châu và Thái Bình Dương. Trong đó có cô Anh Đỗ của Công Ty Người Việt Daily News và Cô Thanh Thảo của đài Viet Abroad Television. 

Sau đó, qua mùa Giáng Sinh 2006, LS Trần Thái Văn đã có lòng mời một số anh em dân cử đến tham dự buổi tuyên thệ của anh ở Sacramento. Dù không ai nói với nhau, những người tham dự đều hiểu rằng LS Văn muốn tạo cơ hội cho chúng tôi gặp những người dân cử khác ở khu vực Nam và Bắc Cali, và chúng tôi hiểu sự quen biết rộng rãi sẽ rất quan trọng khi chúng tôi cần đến sự tiếp tay của họ trong những dự án liên quan đến khu vực của chúng ta. Cũng giống như tôi, những người dân cử gốc Việt này rất nhiệt tình và luôn tin tưởng rằng sự đoàn kết và ủng hộ lẫn nhau sẽ đem đến những quyền lợi tốt đẹp chung. 

Đường chúng ta đi còn dài. Càng ngày khu vực của chúng ta càng bành trướng, cư dân người Việt chúng ta càng đông đảo, và vấn đề của chúng ta cũng vì đó mà càng nhiều và rắc rối.  Là một người phụ nữ Việt, tôi hiểu rất rõ ý nghĩa của hai chữ khiêm nhường. Tuy nhiên trong cương vị một người lãnh đạo và là một người di dân, nếu muốn đạt được mục đích tôi không thể lặng yên đứng sau lưng người tôi ủng hộ. Tôi sẽ đứng bên cạnh người tôi ủng hộ và người ủng hộ tôi sẽ đứng bên cạnh tôi. 

Kính thưa quý vị,

Tôi viết bức tâm thư này vì tôi hết sức quan tâm đến quyền lợi của chúng ta. Trong hai tháng vừa qua, chúng ta đã phân vân bởi việc có 3 ƯCV gốc Việt tham gia trong cuộc tranh cử Giám Sát Viên trong Khu Vực 1 của Quận Cam. Chúng ta lo lắng nôn nao trong lòng vì thấy các bài báo hoặc quảng cáo đi quá sâu vào đời tư và danh dự của các ƯCV.  Nhưng chúng ta hãy nhìn xuyên qua những “con bài” chính trị và hãy hiểu những vấn đề chính. Ai hiểu rõ về lịch sử của người Việt tị nạn chúng ta" Ai hiểu được những nhu cầu của chúng ta" Ai đã dám nói và dám làm, và đã mang về kết quả mỹ mãn cho chúng ta" Ai có một cái nhìn xa cho tương lai của chúng ta" Ai là người thực tế" 

Người xứng đáng không phải là người có nhiều bài đăng trên báo nhất, hoặc có nhiều tiền để campaign, hoặc trẻ nhất, hoặc già nhất, nhưng phải là người có khả năng gánh nổi trọng trách đã giao, có khả năng phục vụ vì lợi ích chung chứ không vì lợi ích cá nhân (one with the ability to deliver and promote unselfishly for the benefit of others).

Có nhiều lá phiếu chưa được gởi đến văn phòng ghi danh bầu cử, tôi khẩn thiết kêu gọi đồng hương hãy bỏ phiếu bầu, vì mỗi lá phiếu của quý vị là lá phiếu rất cần thiết để chúng ta có thể bảo đảm sự đắc cử của một người đồng hương xứng đáng.

Trân trọng kính chào Quý Đồng Hương,

LS Dina Nguyễn Hoàng Linh, Nghị Viên thành phố Garden Grove

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.