Hôm nay,  

Tưởng Niệm Đông Tiến

25/08/200700:00:00(Xem: 9489)

Đông Tiến là con đường tiến về phía Đông, hướng về phía Mặt Trời của đất nước Việt Nam thân yêu từ hải ngoại. Đông Tiến là con đường kháng chiến Việt Nam đã phải băng qua lãnh thổ Lào và Kampuchia từ đất Thái, trong giai đoạn đất nước hoàn toàn bị bao phủ bởi bức màn sắt của độc tài chuyên chế, để xâm nhập vào Việt Nam, vận động toàn dân vùng lên đấu tranh giải phóng đất nước khỏi gông cùm toàn trị của đảng Cộng sản Việt Nam; đoạn đường lịch sử dài suốt gần 10 năm - từ cuối năm 1981 đến giữa năm 1990.

Con đường Đông Tiến được chính thức 'khai sinh' vào hạ tuần tháng 11 năm 1981 khi Tướng Hoàng Cơ Minh, Chủ Tịch Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Viêt Nam (gọi tắt là Mặt Trận), cùng với khoảng 14 chiến hữu của ông, từ Bangkok, tiến về vùng biên giới Thái Lào, để thiết lập khu chiến trong lãnh thổ Lào, cách làng Nong Noi, tỉnh U Bon, Thái khoảng 10 cây số về hướng Đông. Sau khi thiết lập xong căn cứ và huấn luyện thêm nhân sự, Tướng Hoàng Cơ Minh đã thực hiện các toán công tác với nhiệm vụ mở những con đường xâm nhập vào Việt Nam băng qua lãnh thổ Lào và Kampuchia. Mặt Trận gọi đây là giai đoạn Đấu Tranh Đông Tiến với hai mục tiêu: 1/Khai mở con đường liên lạc trong ngoài đã bị tắc nghẽn từ sau năm 1975; 2/Ba('t tay với các lực lượng kháng cự tại nội địa. Kháng Chiến Quân Phùng Tấn Hiệp là người đã có công rất lớn trong việc thực hiện các toán giao liên, mở những con đường xâm nhập Việt Nam trong bối cảnh phôi thai của Kháng chiến Việt Nam.

Mùa Thu năm 1983, toán giao liên do Chiến hữu Phùng Tấn Hiệp phụ trách đã thành công trong việc đưa một đoàn xâm nhập vào tới vùng cao nguyên trung phần Việt Nam và tạo một cái bắt tay lịch sử với một số lực lượng kháng cự đã chiến đấu âm thầm suốt nhiều năm tại đây. Sau khi giải thích về đường lối và chủ trương của Mặt Trận cho những anh chị em hoạt động trong các lực lượng kháng cự, mọi người đã xin giải thể tổ chức của mình, sáp nhập và tham gia Mặt Trận. Vì vậy mà trong chuyến trở ra lại căn cứ, chiến hữu Phùng Tấn Hiệp đã dẫn một đoàn người đông hơn nhiều lần. Kháng Chiến Quân Phùng Tấn Hiệp đã nằm xuống trên con đường Đông Tiến trong một chuyến công tác vào cuối tháng 10 năm 1983 và tên tuổi của anh đã gắn liền với con đường lịch sử này, khi anh được Mặt Trận vinh danh là Anh Hùng Đông Tiến vào cuối năm 1983.

Nỗ lực khai mở con đường giao liên để xâm nhập Việt Nam đã chính thức hoàn tất vào cuối tháng 12 năm 1983, khi Mặt Trận tổ chức buổi lễ kết thúc giai đoạn đấu tranh Đông Tiến, với sự ra đời của đài phát Thanh Việt Nam Kháng Chiến. Đài Việt Nam Kháng Chiến chính thức phát thanh vào lúc 5 giờ sáng ngày 27 tháng 12 năm 1983 sau ba năm nghiên cứu và thử nghiệm. Đài Việt Nam Kháng Chiến đã góp phần rất lớn trong việc duy trì con đường Đông Tiến qua các tín hiệu được Mặt Trận gửi cho những đoàn xâm nhập.

Sau giai đoạn khai mở từ năm 1981 đến năm 1983, con đường Đông Tiến đã bắt đầu rộn rịp với nhiều bước chân di hành của các đoàn công tác, lúc thì tiếp vận, lúc thì đưa người xâm nhập, lúc thì đón người từ trong nước ra các căn cứ học tập, lúc thì đưa những cán bộ Ủy ban kháng quản xâm nhập hoạt động nội thành.... Từ năm 1984 cho đến năm 1990, Mặt Trận đã đưa hàng chục đoàn công tác với hàng trăm người tham dự trong các đợt xâm nhập. Có những chuyến xâm nhập đông đến trên 300 người tham gia; nhưng cũng có chuyến xâm nhập chỉ có khoảng mươi người. Đa số mỗi đoàn xâm nhập có từ 50 đến 110 người. Đoạn đường di hành thường là từ vùng biên giới Thái Lào, băng qua Lào rồi sau đó băng qua đất Kampuchia, tiến vào ngã Ba Tam Biên (Lào - Kampuchia - Việt Nam) để vào khu an toàn của Mặt Trận vào lúc đó là vùng cao nguyên trung phần.

Trong các đợt xâm nhập, tuy có đụng độ với lực lượng bộ đội Lào Cộng và Việt cộng; nhưng anh chị em Kháng Chiến Quân chỉ chiến đấu khi rơi vào tình thế nguy kịch, còn đa số là tránh các cuộc đụng độ vì mục tiêu của Mặt Trận không phải là tiến hành các cuộc đấu tranh quân sự với bộ máy quân sự của Hà Nội, mà là vận động và tổ chức hóa người dân, đứng lên chống lại chế độ độc tài cộng sản bằng chính sức mạnh quần chúng. Mặt Trận gọi đây là đường lối đấu tranh vận dụng.

Trên đoạn đường xâm nhập, ngoài những hy sinh trong các cuộc giao tranh với lực lượng Việt cộng, nhiều anh chị em Kháng Chiến Quân đã bỏ mình vì những nghiệt ngã của núi rừng; nhưng đã không làm chùn bước chân của những con người Việt Nam quả cảm với lòng yêu nước nồng nàn. Chính nhờ con đường Đông Tiến này mà Mặt Trận đã đưa được rất nhiều người con yêu của Tổ Quốc quay trở về hoạt động ngay trên quê hương, và giữ vững ngọn cờ đấu tranh ngay tại quốc nội cho đến ngày hôm nay, dù phải trải qua rất nhiều sóng gió.

Cộng sản Việt Nam đã cố tình bóp méo những sự thật liên quan đến con đường Đông Tiến khi chúng chỉ nêu lên khía cạnh thất bại qua ba chuyến xâm nhập vào năm 1985 của chiến hữu Dương Văn Tư, năm 1987 của chiến hữu Nguyễn Trọng Hùng, có Tướng Hoàng Cơ Minh đi cùng và năm 1989 của chiến hữu Đào Bá Kế. Như trên đã trình bày, con đường Đông Tiến đã không chỉ diễn ra ba đợt xâm nhập như Cộng sản Việt Nam vẽ vời thêu dệt. Thậm chí có một vài người Việt Nam lại dùng chính những điều Việt cộng xuyên tạc về sự tan rã của Mặt Trận sau ba đợt xâm nhập, để tấn công vào Mặt Trận. Tất cả những loan truyền của Việt cộng về Mặt Trận, về con đường Đông Tiến đều là những ráp nối giữa những dữ kiện giả với một vài dữ kiện thật, để lung lạc những người không nắm vững nội vụ vấn đề. Ngay cả chuyến xâm nhập năm 1987 của Tướng Hoàng Cơ Minh, Cộng sản Việt Nam cũng đã dàn dựng ra những dữ kiện không thật, kể cả việc đưa ra một số dữ kiện sai lạc về hướng xâm nhập, sinh hoạt của Kháng Chiến Quân trong lúc di chuyển và tinh thần chiến đấu của Kháng chiến quân. Những sai lạc này lại được một cựu Kháng chiến quân - sau khi bị Việt Cộng cầm tù và thả ra - góp nhặt viết trong một tập Hồi Ký để tiếp tục loan truyền những hình ảnh không đúng, không thật về những hy sinh hào hùng của đồng đội.

Tất cả đều trở về với cát bụi, nhưng lịch sử của một cuộc đấu tranh vẫn còn sống mãi với giòng tiến hóa của dân tộc. Tướng Hoàng Cơ Minh và hàng trăm Kháng Chiến Quân đã khai mở con đường Đông Tiến, con đường đánh dấu sự quật khởi hào hùng của dân tộc Việt Nam giữa tang thương và đổ vỡ của biến cố 30-4-1975, và sau hơn 5 năm đất nước bị nhuộm đỏ bởi đảng Cộng sản Việt Nam. Con đường Đông Tiến đã trở thành một giai thoại đấu tranh của lịch sử cận đại; nhưng chính nhờ lòng yêu nước nồng nàn và sự can đảm của hàng trăm Kháng chiến Quân mà niềm tin đã được khôi phục, đã giúp giữ vững trận thế chống độc tài Cộng sản trong lúc mà tâm trạng chung là buông xuôi và tháo chạy của thập niên 80. Nhớ về Đông Tiến và nhớ đến bối cảnh tan nát của đất nước vào lúc đó mới thấy rõ sự can đảm của những con người kiên cường, dám vứt bỏ đời sống ấm êm nơi xứ người, từ giã vợ con, gia đình để xông vào chốn hiểm nguy, xây dựng lại thế trận đấu tranh bằng hai bàn tay trắng. Tưởng niệm Đông Tiến chính là xiển dương tinh thần đấu tranh hào hùng của những tấm gương dũng liệt đã Vị Quốc Vong Thân.

August 24 2007

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.