Hôm nay,  

Iraq, Việt Nam Và... Iran

25/08/200700:00:00(Xem: 9929)

Lịch sử không khi nào tái diễn... y hệt như xưa...

Trong tuần qua, chúng ta đã gặp một chuỗi nghịch lý liên quan đến vấn đề nóng bỏng nhất của Hoa Kỳ ngày nay, là hồ sơ Iraq.

Trước hết, hãy nhắc lại một số diễn biến trong tuần.

Sau khi kinh lý Iraq, hai Nghị sĩ trong Ủy ban Quân vụ Thượng viện Hoa Kỳ là Carl Levin bên đảng Dân chủ đang nắm đa số và John Warner bên đảng Cộng hoà, đã lên tiếng hôm Thứ Ba 21 về những điều mắt thấy tai nghe tại chỗ. Rằng chiến lược dồn quân đánh tới của Chính quyền Bush hồi đầu năm đã có kết quả khả quan hơn những lượng định ban đầu.

Đấy là tin vui bất ngờ cho ông Bush vì cho thấy rằng Quốc hội Mỹ cuối cùng cũng xoay chiều và công nhận một số điều trước đây, mới tháng trước thôi, vẫn bị phủ nhận.

Nghịch lý là nhận định của Nghị sĩ Levin. Ông nặng nề phê phán thành tích của Chính phủ Baghdad dưới quyền lãnh đạo của ông Nouri al-Maliki và - ngông cuồng dại dột chừng nào - còn nói thẳng rằng Iraq nên có lãnh đạo khác. Phần mình, dù công nhận là chiến lược dồn quân đánh tới của ông Bush có kết quả khả quan hơn, Nghị sĩ Warner vẫn đề nghị là từ nay đến Giáng sinh, Mỹ nên giảm bớt quân số tại Iraq.

Kết luận ở đây là chiến lược dồn quân đã có kết quả, nhưng chưa tốt!

Hôm sau, Thứ Tư 22, Tổng thống Bush có bài phát biểu được tiết lộ trước một phần về hồ sơ Iraq. Ông chủ yếu so sánh chuyện Iraq với Việt Nam để nhấn mạnh rằng dưới quyền lãnh đạo của ông, Hoa Kỳ sẽ không tháo chạy khỏi Iraq như đã tháo chạy khỏi Việt Nam. Một cách gián tiếp, ông cảnh cáo Quốc hội trong tay đảng Dân chủ là đừng tái diễn thảm kịch Việt Nam khi cột tay chiến sĩ và gây thảm họa cho người khác.

So sánh hai biến cố ở hai thời điểm và địa điểm khác nhau như ông Bush luôn luôn là điều dại dột vì dễ gây tranh luận vì nhiều khác biệt tất yếu.

Thành phần thiên tả, chủ hoà và đa số bên đảng Dân chủ đả kích lập luận của Tổng thống ở lý do tham chiến tại Iraq hơn ở nguyên nhân tháo chạy khỏi Việt Nam. Đó là hiện tượng "trí nhớ có chọn lọc", trong sự chọn lọc đã có phần ngụy tín. Phe bảo thủ bên đảng Cộng hoà cũng chọn các lý luận để bênh vực lập trường của Tổng thống. Và hai phe tiếp tục tranh luận trong khi về thực chất thì đa số dân Mỹ, từ học giả, sử gia tới chiến lược gia, đều chả hiểu gì về cuộc chiến Việt Nam, về lý do can thiệp, phương pháp tiến hành và hoàn cảnh tháo chạy lẫn hậu quả sau đó.

Và vụ Iraq ngày nay là một minh diễn của sự kiện đó.

Trong khi chờ đợi cuộc điều trần của Đại tướng David Petraeus và Đại sứ Ryan Crocker trước Quốc hội vào trung tuần tháng tới, những sự kiện tại chỗ cho thấy Hoa Kỳ có đạt một số thành tích tại Iraq. Chủ yếu là khả năng tiễu trừ khủng bố al-Qaeda nhờ sự hợp tác tích cực hơn của các lãnh tụ Sunni khi các đơn vị Mỹ được dồn vào mặt trận đã gây nhiều tổn thất sinh tử cho quân khủng bố, là điều đang được dư luận và Quốc hội Mỹ công nhận.Nhưng, và đây là một nghịch lý khác, ngày Thứ Năm 23, các cơ quan tình báo Hoa Kỳ công bố tài liệu gọi là Lượng định về Tình báo Quốc gia (NIE) với một kết luận gây choáng váng cho mọi người: lãnh đạo chính trị tại Iraq không có khả năng cai trị.

Nhìn từ hai giác độ thì giới hữu trách về quân sự cho rằng tình hình có tiến triển, nhưng giới hữu trách về tình báo lại cho rằng dù an ninh có cải thiện, tình hình nội chính tại Iraq vẫn bất ổn và vì vậy khó dẹp được những đòn khủng bố phá hoại.

Trên cùng một địa bàn, hai cơ chế then chốt là tình báo và quân sự lại có hai lượng định trái ngược. Mà oái oăm thay, cả hai lượng định này đều đúng! Nếu như vậy, phải có gì sai trong mục tiêu và chiến lược của Hoa Kỳ.

Chuyện đúng sai ấy đang tái diễn thảm kịch Việt Nam nên người viết mới nêu nhận xét bi quan có thể làm người đọc bất bình, rằng Hoa Kỳ vẫn chưa hiểu gì về chuyện Việt Nam thời xưa nên vẫn chưa hiểu gì về chuyện Iraq thời nay!

Nhìn cho gọn vào chuyện Iraq, Hoa Kỳ đang cố tranh thủ hậu thuẫn của phe Sunni để diệt trừ khủng bố ngoại nhập - al-Qaeda và các nhóm xưng danh Thánh chiến. Tranh thủ bằng cách ra quân tiễu trừ và đóng quân ở lại để củng cố niềm tin của cộng đồng Sunni. Thắng lợi quân sự nằm trong việc tê liệt hoá hoạt động của khủng bố nhờ sự hợp tác và chỉ điểm của các lãnh tụ sắc tộc Sunni.

Điều trớ trêu là phe Sunni thiểu số này không thể trở lại vị trí thống trị như trong thời Saddam Hussein vì phe đa số là dân Shia đã được Mỹ "giải phóng" năm 2003 nhờ việc lật đổ chế độ Saddam. Phe đa số này - mà Thủ tướng Nouri al-Maliki là một trong nhiều lãnh tụ - muốn đoạt lại vị trí thống trị chưa hề có và không muốn hay không thể kiềm chế được các lực lượng võ trang Shia. Lượng định NIE của tình báo Hoa Kỳ nói tới sự yếu kém của hệ thống chính trị chính là do thiện chí hay khả năng không có của phe Shia.

Chưa nói tới sự hà hơi tiếp sức của Iran ở đằng sau!

Vì vậy, báo cáo lạc quan của quân đội và bi quan của tình báo đều đúng cả, mà tình hình vẫn chưa thể khả quan, khiến một Nghị sĩ Cộng hoà như John Warner mới kết luận rằng chi bằng rút quân!

Nhìn như vậy rồi, chúng ta mới trở lại chuyện cũ.

Tại Việt Nam, Hoa Kỳ can thiệp để ngăn ngừa làn sóng đỏ từ Liên bang Xô viết và Trung Quốc yểm trợ cho Bắc Việt Cộng sản tràn xuống miền Nam. Một lý do chính đáng trong khuôn khổ Chiến tranh lạnh. Nhưng khi tham chiến, Hoa Kỳ đã lẫn lộn mục tiêu.

Nếu để bảo vệ miền Nam thì phải tấn công vào hậu phương của cuộc xâm lược là miền Bắc và hậu cứ của Bắc Việt là Lào và Căm Bốt. Hoa Kỳ thời Kennedy và Johnson lại chủ trương "đánh toàn cầu hoà" và phát huy sáng kiến xây dựng dân chủ tại miền Nam, ngay trong thời chiến. Để rồi cả chính trường lẫn truyền thông Mỹ đều nhắm mắt trước tình trạng phi dân chủ tại miền Bắc mà kịch liệt đả kích nạn độc tài hay thiếu dân chủ ở trong Nam.

Tức là đòi hỏi kẻ bị xâm lược phải vừa tự vệ - theo kiểu chiến tranh nhà giàu của Mỹ - vừa xây dựng cơ chế quốc gia độc lập và dân chủ trên một vùng đất đã bị thực dân Pháp cai trị từ... 1867, một trăm năm trước vụ Mậu Thân 68. Xét theo tiêu chuẩn ngây ngô đó của Mỹ thì Tổng thống Diệm là người độc tài phải bị giết, Tổng thống Thiệu là người tham nhũng phải bị lật!

Và Hà Nội tất nhiên phải thắng!

Mất mấy chục năm cãi lộn xem ai đã để "thua" tại Việt Nam, Hoa Kỳ đang tái diễn chuyện cũ tại Iraq.

Khi quyết định can thiệp vào Iraq, Chính quyền Bush muốn làm một minh chứng dữ dội về quyết tâm của mình trên trận chiến chống khủng bố. Lý cớ dễ chấp nhận nhất là sự tồi bại đầy nguy hiểm của chế độ Saddam Hussein. Lý do chiến lược tiềm ẩn bên dưới là làm gương cho thế giới Hồi giáo, từ các đồng minh ôn hoà tới các lực lượng khủng bố quá khích. Rằng hung hăng như Saddam Hussein trong một cường quốc Hồi giáo cấp vùng là Iraq mà còn bị lật đổ thì, 1) đồng minh ôn hoà, như Saudi Arabia, nên tin tưởng vào Mỹ, và 2) kẻ thù hung hiểm là quân khủng bố nên biết sợ Mỹ.

Chứng minh có tính chất chiến lược ấy coi như hoàn tất chỉ ba tuần sau khi Mỹ đổ quân vào Iraq. Lúc ấy, chưa ai nói đến al-Qaeda hay thủ lãnh khủng bố al-Zarqawi của al-Qaeda.

Khốn nỗi - và vì chưa rút tiả bài học Việt Nam - Chính quyền Bush còn muốn đi xa hơn, đó là góp phần xây dựng dân chủ trên một vùng đất chưa hề có khái niệm dân chủ và chỉ được thống nhất bằng bạo lực độc tài của Saddam. Vành đai độc tài bị bung là mở ra những tranh chấp sắc tộc, với sự xúi giục của các lân bang.

Hoa Kỳ không đủ quân số và cán bộ cho việc ổn định tình hình Iraq để gieo trồng hạt mầm dân chủ hầu chứng minh tiếp cho thế giới Hồi giáo - ngoài bài bản ban đầu - rằng dân chủ có giá trị hơn độc tài và khủng bố. Và bị mắc bẫy trong đòn du kích phá hoại của Iran lẫn phiến loạn khủng bố của al-Qaeda, trước sự phẫn nộ của các lãnh tụ Sunni.

Vì vậy, mặc dù tác chiến rất hay các đơn vị Mỹ không thể canh chợ cho dân Iraq học tập dân chủ và mặc dù dân chúng rất khát khao xây dựng lại đời sống đến mức đội bom đi bầu ba lần trong năm 2005, Iraq vẫn chưa có một hệ thống chính trị có khả năng ổn định hay hoà giải xung đột.

Đó là tình trạng ngày hôm nay, sau khi Chính quyền Bush đôn quân từ đầu năm - thực tế chỉ tạm đủ quân số kể từ giữa tháng Sáu - việc diệt trừ khủng bố đã có tiến triển, việc xây dựng chính quyền thì chưa.

Trong khi ấy, dư luận Hoa Kỳ đã hết kiên nhẫn!

Trong lịch sử nước Mỹ thì sau cuộc chiến giành độc lập, Hoa Kỳ chưa và không thể có khả năng tham chiến quá bốn năm, vì bất cứ một lý do nào, chính đáng hay không, cao thượng hay không. Nức lòng ủng hộ việc đổ quân tham chiến tại Việt Nam vào tháng Ba năm 1965, Quốc hội trong tay đảng Dân chủ đã ngả theo dư luận để trở thành phản chiến năm 1968. Chuyện ấy đang tái diễn và đáng lẽ Chính quyền Bush phải biết trước. Và giải thích được sự thể cho rõ ràng hơn!

Cái giá phải trả, rất nhẹ, là việc đảng Cộng hoà mất đa số trong Quốc hội năm 2006. Cái giá còn lớn lao hơn sẽ phải trả sau này là những gì sẽ xảy ra cho Hoa Kỳ trên thế giới.

Tổng thống Bush chỉ còn 16 tháng tại chức, người kế nhiệm ông sẽ phải giải quyết hồ sơ này. Và câu hỏi cho mọi người, kể cả các ứng viên, là "làm sao bây giờ""

Trước mắt thì dù Tổng thống Bush vẫn còn khả năng phủ quyết để chặn đà tháo chạy của Quốc hội Dân chủ, Hoa Kỳ không thể tiếp tục cuộc chiến như hiện nay.

Còn lại là giải pháp rút hết để cho ngần ấy phe tàn sát lẫn nhau - giả thuyết biển máu của ông Bush hay giải pháp tháo chạy của nhiều lãnh tụ Dân chủ - là điều bất khả vì Iran sẽ lấp vào khoảng trống và đe dọa biên giới Iraq với Saudi Arabia. Cả bán đảo Ba Tư sẽ vuột khỏi ảnh hưởng của Hoa Kỳ và nếu tránh được al-Qaeda thì sẽ có ngày Mỹ vẫn phải quay lại, một quyết định đau lòng nhức tim của người kế nhiệm ông Bush, cho dù nước Mỹ vẫn có thể thản nhiên với cảnh tàn sát trong thế giới Hồi giáo ngay trong năm tới.

Nếu không triệt thoái toàn bộ thì còn giải pháp rút quân một phần như Nghị sĩ Warner đề nghị. Là một nghị sĩ cao niên, không có tham vọng tranh cử Tổng thống và cũng chẳng tối mắt chống Bush, ông Warner chỉ tìm cách gỡ bí cho Hoa Kỳ. Nhưng thật ra đề nghị một giải pháp còn phi lý hơn!

Mỹ càng tiếp tục hiện trạng với quân số ít hơn thì mâu thuẫn giữa hai thành phần đều có thiện chí như nhau là quân đội và tình báo sẽ càng đào sâu, và bị đảng Dân chủ tận tình khai thác trong thời kỳ tranh cử. Cho tới khi vẫn phải rút hết trong điều kiện còn ô nhục hơn. Quân lực Việt Nam Cộng Hoà đã cầm cự được hai năm sau khi các đơn vị tác chiến của Mỹ đã triệt thoái khỏi Việt Nam, cho tới khi bị cột tay bức tử năm 1974. Tại Iraq, ngần ấy phe, kể cả dân Kurd và Sunni bị bỏ rơi sẽ không ngồi yên chờ Mỹ rút theo kiểu tuần tự như Warner đề nghị.

Nếu không thể giữ, không thể rút hay giảm quân thì còn giải pháp thứ ba: dồn thêm quân để ổn định tình hình trên một địa bàn rộng lớn hơn hầu trở thành trọng tài đáng sợ cho ngần ấy hệ phái hay lực lượng võ trang Kurd, Sunni và Shia. Giải pháp vô vọng: quân lực Mỹ bị căng mỏng vì phải đối đầu với hai chiến trường nóng là Afghanistan và Iraq, trên một trận tuyến toàn cầu là khủng bố Hồi giáo ngụy danh Thánh chiến, lại đang bị Liên bang Nga khiêu khích với các cuộc tuần sát toàn cầu của oanh tạc cơ chiến lược!

Vả lại, việc dồn quân đánh tới từ đầu năm mà còn bị Quốc hội và dư luận tính điểm hàng ngày, việc đưa thêm quân vào - nửa triệu như thời 1991 - là điều bất khả về hoàn cảnh chính trị lẫn thực tế vật chất là quân số. Mà dù Đại tướng Petraeus có là thiên tài quân sự đi thì xã hội và quân đội Mỹ vẫn chưa được chuẩn bị cho hình thái chiến tranh nổi dậy - một bài học khác chưa học tại Việt Nam.

Không giữ hiện trạng được, không rút quân hay đôn quân được, Hoa Kỳ có thể làm gì" Trong hoàn cảnh tiến thoái đều lưỡng nan như vậy, thì Chính quyền Bush và lãnh đạo Hoa Kỳ nói chung có thể làm gì"

Xóa bài làm lại, hoặc "thua me gỡ bài cào" có thể là giải pháp.

Chúng ta lại trở về mục tiêu ban đầu của chiến dịch Iraq.

Việc chứng minh ý chí diệt trừ khủng bố (al-Qaeda và đồng đạo) coi như có đạt kết quả nhất định: Lãnh thổ Mỹ hết bị tấn công, al-Qaeda bị khoanh vùng tại Afghanistan và đang bị phe Sunni cô lập hay tiêu diệt tại Iraq với sự yểm trợ của các đơn vị Mỹ. Hoa Kỳ thua me vì không gây dựng được dân chủ tại Iraq nhưng không hẳn là thất trận trong cuộc chiến chống khủng bố - mục tiêu nguyên thủy và quan trọng nhất của vụ tấn công Iraq.

Bây giờ mới gỡ bài cào, bằng cách bày ra trận tuyến khác vì mục tiêu khác: Hoa Kỳ không thể để Iran khuynh đảo vùng Vịnh - và Iraq. Nếu minh định mục tiêu như vậy thì nhiệm vụ của các đơn vị Mỹ trên chiến trường Iraq hết là canh chợ cho dân Iraq học tập dân chủ mà là bảo vệ một số căn cứ quân sự trên lãnh thổ xứ này - ở vòng đai Tây-Bắc ngoài sa mạc và ngoài các trung tâm định cư lớn của cả ba sắc dân Kurd, Sunni và Shia. Đồng thời bảo vệ được biên cương  Iraq với Saudi Arabia.

Đây là chiến lược "rút mà không ra" vì Hoa Kỳ xoay ra kinh doanh kiểu khác!

Về quân sự, chiến lược này sẽ tránh được tổn thất sinh mạng cho lính Mỹ và tổn thất chính trị cho Chính quyền Bush. Về chính trị, giao tranh giữa các phe Iraq sẽ là... chuyện nội bộ của người Iraq, nhưng phe Shia và Iran sẽ hiểu được tín hiệu của Mỹ. Nếu chưa hiểu được thì sẽ gặp áp lực rất nặng bên cạnh hội nghị song phương giữa Iran và Hoa Kỳ.

Phải chăng Chính quyền Bush đã tính như vậy từ đầu năm nên Đại sứ Crocker mới có ba cuộc hội đàm với vị tương nhiệm của Tehran tại Thủ đô Baghdad" Và phải chăng trận tuyến Iran-Hoa Kỳ mới là chính, khiến Mỹ dồn quân yểm trợ phe Sunni để giữ thế mạnh và lâu lâu bắn tiếng sẽ không tập Iran" Và Tổng thống Putin mới cho chiến đấu cơ cất cánh để làm tản lực Mỹ"

Nếu như vậy, câu chuyện Iraq và thành tích dồn quân chỉ là chuyện hư. Chuyện thực là sau khi thua me, Hoa Kỳ đang tìm cách gỡ bài cào để Iraq không là một Việt Nam khác. Nếu không, dại gì ông Bush lại moi chuyện Việt Nam ra để khiêu khích Quốc hội Dân chủ"

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 2024 là năm bầu cử, một năm gay go thử thách, và đề tài yêu ghét dù muốn hay không muốn đã trở lại trên các trang báo, trong các buổi tranh luận trong gia đình, ngoài xã hội. Chúc bàn tiệc trong năm của quý vị rôm rả những câu chuyện, những cuộc đối thoại bổ ích hai chiều, những thay đổi tốt đẹp. Và xin cảm ơn quý thân hữu, thân chủ đã hỗ trợ, gắn bó cùng hành trình với Việt Báo trong hơn 31 năm qua. Sau cùng là lời tri ân đến các độc giả Việt Báo: chính quý vị, những người đọc khó tính là thành trì giúp Việt Báo trở thành một tờ báo uy tín, chuyên nghiệp.
Năm 2023 tiến vào những ngày cuối cùng, nó sẽ đi qua và không bao giờ trở lại. Lịch sử sẽ đi qua nhưng những việc làm của con người sẽ tồn tại với sự khôn ngoan và ngu ngốc của đa số. Cụm từ ‘con-người-đa-số’ chỉ định ý muốn chung của đa số người. Và ‘con-người-thiểu-số’ đành phải tuân theo. Trò sinh hoạt dân chủ luôn luôn là con dao hai lưỡi có hiệu quả tùy thuộc sở thích của con người đa số. Sở thích? Một thứ tạo ra tốt lành hoặc khổ nạn. Đúng ra là cả hai, nhưng có một trong hai sẽ lớn hơn, đôi khi, lớn gấp bội phần. Nếu khổ nạn quá lớn thì cuộc sống chung sẽ thay đổi, có khi lâm vào mức tồi tệ. Chẳng hạn như trường hợp nước Đức dưới thời Hitler. Ý muốn của con người đa số đam mê nồng nhiệt ý muốn của Hitler. Cho ông ta cơ hội dẫn đầu một quốc gia quyền lực, tạo ra hiệu quả cuộc chiến thế giới thứ hai. Hậu quả tàn khốc đó do ai? Hitler? Đúng một phần.
“Tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong Lực lượng vũ trang nhân dân là mối lo hàng đầu của đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Bằng chứng này đã được Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đưa ra tại Hội nghị Đảng ủy Công an ngày 20/12/2023 tại Hà Nội, và trong nội dung các bài viết trên báo chí chính thống của nhà nước liên quan đến Quân đội...
Người ta nên áp dụng đạo đức vào tài chính trị của Henry Kissinger như thế nào? Làm thế nào để người ta quân bình những thành tựu với những hành vi sai trái của Kissinger? Tôi đã vật lộn với những vấn đề đó từ khi Kissinger là giáo sư của tôi, và sau này là đồng nghiệp tại Đại học Harvard. Vào tháng Tư năm 2012, tôi đã giúp phỏng vấn ông trước một số lượng lớn cử toạ tại Harvard và hỏi liệu ông có làm điều gì khác đi trong thời gian làm ngoại trưởng cho các Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Gerald Ford không. Lúc đầu, ông nói không. Suy nghĩ lại, ông nói rằng ước mình là đã hoạt động tích cực hơn ở Trung Đông. Nhưng ông không đề cập đến Campuchia, Chile, Pakistan hay Việt Nam. Một người phản đối ở phía sau hội trường hét lên: "Tội phạm chiến tranh!"
Việt Nam có còn “độc lập” với Trung Quốc hay không sau chuyến thăm Hà Nội của Tổng Bí thư, Chủ tịch nhà nước Tập Cận Bình là thắc mắc của người dân Việt Nam. Ông Tập có mặt ở Việt Nam từ 12 đến 13 tháng 12 năm 2023 và đạt được cam kết của Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng về “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam-Trung Quốc”.
Ngày nay, Chiến lược Phòng thủ Quốc gia của Hoa Kỳ – giống như chiến lược Chiến tranh Lạnh tạo chuẩn mực cho tư duy chiến lược trong những năm từ thập kỷ ‘50 đến ’80 – bị chi phối bởi một tác nhân đe dọa chính, đó là Trung Quốc. Điều này vừa cung cấp thông tin vừa tạo điều kiện cho tất cả các mối đe dọa lớn khác có thể xảy ra: Nga, Iran và Bắc Triều Tiên. Giống như thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ hiện đang lâm vào một cuộc cạnh tranh với đối thủ duy nhất của mình, một cuộc cạnh tranh có khả năng bỏ rơi các thành tựu chính trị, kinh tế và công nghệ. Hoa Kỳ cũng đang ở trong một cuộc chạy đua vũ trang hiện đại, và trong một số trường hợp, chơi trò đuổi bắt và tranh đua để giành tình hữu nghị, gây ảnh hưởng lên các quốc gia khác trên thế giới.
Rồi vào ngày 12/12/2023, tức chỉ sau ba tháng, Việt Nam lại long trọng tiếp đón Chủ Tịch Tập Cận Bình và nói rằng hợp tác và hữu nghị với Trung Quốc là lựa chọn chiến lược của Việt Nam...
Chỉ ba tháng sau khi Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ lên cấp cao nhất trong hệ thống phân cấp ngoại giao trong chuyến thăm của Tổng thống Biden, người ta thấy Chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc đã trở thành nhà lãnh đạo thế giới mới nhất tăng cường quan hệ với Việt Nam với chuyến thăm Hà Nội trong tuần này...
Chuyến thăm Việt Nam hai ngày của Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình đã để lại nhiều hệ lụy cho nhân dân Việt Nam hơn bao giờ hết. Bằng chứng này được thể hiện trong Tuyên bố chung ngày 13/12/2023 theo đó họ Tập thay quan điểm “cộng đồng chung vận mệnh” bằng “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai” cho hai nước...
Sự ra đi của nhà tư tưởng và thực hành xuất sắc về chính sách đối ngoại của Mỹ đánh dấu một kỷ nguyên kết thúc. Trong suốt sự nghiệp lâu dài và có ảnh hưởng phi thường của mình, Henry Kissinger đã xây dựng một di sản mà người Mỹ sẽ khôn ngoan chú ý trong kỷ nguyên mới của nền chính trị cường quốc và sự xáo trộn trong toàn cầu. Thật khó để tưởng tượng rằng thế giới mà không có Henry Kissinger, không chỉ đơn giản vì ông sống đến 100 tuổi, mà vì ông chiếm một vị trí có ảnh hưởng và đôi khi chế ngự trong chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của Mỹ trong hơn nửa thế kỷ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.