Hôm nay,  

Từ Loài Chó Đến Con Người: Bệnh Giun Chỉ

02/02/200800:00:00(Xem: 7936)

- Bs Thú y Nguyễn thượng Chánh

Keywords: Dirofilariosis, Canine heartworm

Ký sinh trùng Dirofilaria immitis là một loại giun chỉ (filaria) thường sống ký sinh trong tim chó và đôi khi cũng gặp trong tim mèo.

Đây là giun tim chó (canine heartworm). Những năm gần đây có rất nhiều báo cáo khoa học cho biết có bằng chứng giun chỉ Dirofilaria có thể từ thú lây nhiễm sang cho người.

Bắt Đầu Từ Bệnh Giun Tim Chó

Giun tim chó D. immitis là một bệnh ký sinh khá phổ biến khắp thế giới. Bệnh thường xảy ra nhiều nhất ở loài chó, bất kỳ con đực hay cái, bất kỳ tuổi tác hay nơi chốn ở.

Bệnh cũng còn có thể thấy ở mèo nhà và ở một số thú rừng như chó sói, coyote, chồn và ferret (chồn sương"), sư tử biển sea lion nữa...

Người cũng có thể bị nhiễm loại giun ký sinh nầy, tuy nhiên rất là hi hữu hiếm thấy xảy ra.

Chó là ký chủ thật sự (definitive host) của giun tim Dirofilaria immitis.

Giun trưởng thành dài từ 6 cm đến 30 cm, con đực nhỏ hơn con cái. Thông thường có từ vài chục đến một hai trăm giun sống trong tâm thất phải (right ventricle) và trong động mạch phổi (pulmonary artery) của loài chó.

Giun đực và cái giao hợp nhau đẻ ra vô số ấu trùng microfilariae giai đoạn 1 hay L1 vào trong máu.

Muỗi là ký chủ trung gian (intermediate host) của giun D. immitis.

Khi muỗi hút máu chó bệnh thì hút luôn cả ấu trùng L1.

Trong bụng muỗi, L1 sẽ chuyển biến qua nhiều giai đoạn trong vòng 2 tuần lễ để trở thành ấu trùng L3.

Sau đó, L3 di chuyển lên tuyến nước bọt của con muỗi. Chỉ có ấu trùng L3 mới có khả năng lây nhiễm (infective stage) cho thú vật và cho người. Khi muỗi hút máu một con chó, nó sẽ bôm luôn  ấu trùng L3 vào con vật. L3 theo máu chạy khắp cơ thể và thường vào các sớ cơ và phát triển thành ấu trùng L4 rồi L5...

L5 được xem như thật sự là một con giun con. Cuối cùng L5 chạy về tim để tiếp tục trưởng thành. Thời gian từ lúc ấu trùng L3 xâm nhập vào cơ thể chó đến lúc chúng trở thành giun trưởng thành để có thể đẻ được thì cũng phải mất từ 7 hay 8 tháng.

Tùy theo giai đoạn phát triển và mức độ nhiễm của giun mà con chó sẽ biểu lộ ra những triệu chứng lâm sàng khác nhau, như thở khó, ho kinh niên, dễ mệt, bồn chồn (restlesness), mất cân, da và lông khô không được mướt, v.v... Giun có thể làm tắc nghẽn tim khiến tim phải tăng sức co thắt và bị triển dưỡng, yếu đi dẫn đến tình trạng suy tim (congestive heart failure) và bị báng (ascitis). Chó có thể chết.

 Chẩn đoán bệnh giun tim chó có thể được thực hiện bằng nhiều cách:

1) Sử dụng kính hiển vi để tìm sự hiện diện của ấu trùng microfilariae trong máu.

Cách nầy có thể không hữu hiệu nếu thử quá sớm, vì số lượng ấu trùng còn quá ít, hoặc không có ấu trùng trong máu như trong trường hợp mà khoa học gọi là occult heartworm (có thể vì lý do chỉ có duy nhất một giống giun hoặc chỉ toàn là con cái hay chỉ toàn là con đực gọi là Single sex infection). Cũng có thể vì lý do giun đi lạc đường aberrant migration nên không gặp nhau để giao hợp được).

2) Tìm kháng thể (antibody) chống lại các giai đoạn của ấu trùng. Phương pháp nầy cũng không mấy hữu hiệu cho lắm vì lý do kháng thể có thể vẫn còn tồn tại trong máu một thời gian sau khi ấu trùng đã chết mất từ một vài năm về trước rồi.

3) Tìm chất sinh kháng (antigen) của giun cái đang đẻ. Kết quả rất thay đổi không đồng nhất.

4) Chụp hình quang tuyến Xray phổi và tim, để hy vọng tìm những sự biến đổi có thể nhìn thấy được chẳng hạn như tâm thất phải bị triển dưỡng và động mạch phổi phình to ra.

5) Dùng siêu âm (ultrasounds) để nhận diện sự hiện diện của giun trong tim.

Bệnh giun chỉ ở chó có thể phòng ngừa và chữa trị hữu hiệu bằng nhiều loại thuốc chích, uống, nhai hoặc thoa ngoài da mỗi tháng để diệt ấu trùng (larvae) hoặc để diệt giun trưởng thành (adult). Đó là các loại thuốc như Thiacetarsamide, Ivermectin, Diethylcarbamazine DEC, Benzimidazole, Melarsomine dihydrochloride, Macrocyclic lactone ML, Milbemycin oxime, Selamectin, Moxidectin, Heartgard...

Coi chừng phản ứng thuốc vì có vài loại có chứa arsenic rất độc. Đôi khi việc chữa trị làm chết con chó vì lý do một số lượng quá nhiều giun bị giết cũng một lúc và xác của chúng làm tắc nghẽn mạch máu qua hiện tượng thromboembolism. Thường một sồ thuốc ngừa giun tim cũng đồng thời ngừa luôn giun móc (hookworms) và một số ký sinh trùng đường ruột khác nữa.

Đến Bệnh Giun Chỉ Ở Người

Điều nên nhớ là bệnh giun chỉ Dilofilariosis bắt buộc phải qua trung gian của con muỗi (Aedes, Culex, Anopheles) mới có thể phát triển và truyền lây được. Muỗi vừa là ký chủ trung gian vừa là  vector của giun chỉ.

Người được xem là ký chủ rủi ro (accidental host) khác với chó là ký chủ tự nhiên (natural host) của giun Dirofilaria. Khi muỗi cắn, ấu trùng L3 được muỗi bôm vào máu nhưng hầu như tất cả đều bị hệ miễn dịch tiêu diệt hết, ngoại trừ một số ít còn sót lại và tiếp tục phát triển trong cơ thể.

Tuy nhiên, vì người là ký chủ rủi ro cho nên sự tăng trưởng của giun không bao giờ được trọn vẹn, nghĩa là không thể đạt tới giai đoạn giun trưởng thành sinh dục (sexually mature) vì vậy chúng không thể đẻ được.

Bởi lý do nầy cho nên không thấy có ấu trùng microfilariae trong máu của người, và cũng không có vấn đề lây nhiễm giun chỉ từ người nầy sang cho người khác được.

Hai loại giun sau đây thường thấy hay lây sang cho người:

-* Dirofilaria immitis là giun tim chó. Ở người, thay vì chạy vào tim chúng lại chạy vào các nhánh của động mạch phổi, gây tắc nghẽn lưu thông máu và qua hiện tượng infarction (mô nhồi máu) gây tổn thương một vùng phổi. Một nốt hay nodule lối 2cm được thành lập ngay nơi đó. Nếu nhìn qua hình quang tuyến Xray, sẽ thấy vết nám tròn cỡ đồng xu trên phổi ngay chỗ nodule. Trường hợp nầy rất dễ nhầm lẫn với bệnh tích lesion của cancer phổi.

-* Dirofilaria (Notchtiella) repens, thường định vị trong những nốt dưới da chó và mèo. Ở người, giun có thể định vị trong một thời gian một vài năm trong các nốt dưới da (subcutaneous nodule), vùng vú, trong bìu scrotum dịch hoàn và dưới lớp kết mạc của mắt (subconjunctival space). Khi giun chết, các nốt trở thành calci hóa.

Theo tài liệu cho biết, từ trước tới giờ cả thế giới đã có lối 782 ca nhiễm giun chỉ D. repens từ súc vật sang cho người.

Đôi khi giun vẫn còn sống ngọ ngoẹ lúc được phát hiện ra. Điển hình là vào tháng giêng 2008  Đại học Y Hà nội có báo cáo lần đầu tiên Việt Nam đã tìm thấy được giun D. repens còn sống trong lớp kết mạc nơi mắt một bệnh nhân. Giun nằm cuộn tròn trong một cái kén trong lớp kết mạc của mắt. Sau khi mổ, giun đo được 12 cm.

 http://vietbao.vn/Khoa-hoc/Giun-ky-sinh-o-mat-nguoi-dai-12-cm/20764508/188/

Chó vùng Địa Trung Hải có tỷ lệ nhiễm giun D. repens rất cao.

Italy và SriLanka là hai quốc gia cố số người bị nhiễm D. repens quan trọng nhất.

Ngoài hai loại giun D. immitris và D. repens rất phổ biến ở loài chó, chúng ta còn phải kể đến một số giun Dirofilaria khác, tuy hiếm thấy hơn nhưng cũng là những ký sinh trùng có thể truyền từ vật sang cho người (zoonotic infection). Các loài giun nầy thường thấy định vị duới da. Đó là giun chỉ D. striata, D. ursi (ở gấu đen), D. subdermata (ở con nhím porcupine), D. tenuis (ở gấu trúc Mỹ" raccoon).

Kết Luận

Các khảo cứu về dịch tể học đã cho chúng ta biết là số người bị nhiễm giun chỉ Dirofilaria từ thú không ngừng gia tăng thêm mãi... Các nơi được thấy báo cáo là các xứ thuộc khối Liên bang Sô viết cũ, Tiệp Khắc, Đài Loan, Ấn độ, SriLanka, Iran, Do Thái, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ý Đại Lợi, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha, Hung Gia Lợi, Slovakia, Tunisie, Brazil, Úc Châu, Philippines, Thái Lan,  Việt Nam,v.v...

Ngày nay, giới y khoa đã ý thức và cảnh giác hơn khi xưa về những bệnh từ thú lây sang cho người. Các tiến bộ khoa học cũng đã góp phần không nhỏ vào việc chẩn đoán được nhanh hơn và chính xác hơn. Ngoài ra, hiện tượng hâm nóng toàn cầu (global warming) có thể được xem như yếu tố mấu chốt làm thay đổi môi sinh và sinh thái cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho muỗi phát triển dễ dàng và có thể hút máu một số lượng lớn thú và người kể cả tại những vùng mà từ xưa nay được xem như có ít muỗi.

Quả thật, Dirofilariosis là một bệnh từ thú sang người hay là một zoonosis đang lên!

Phòng ngừa bệnh giun chỉ ở chó mèo là việc cần phải quan tâm đến, tuy nhiên vấn đề nầy không đơn giản và dễ thực hiện. Trong thực tế cón rất nhiều người chưa ý thức đúng mức tầm quan trọng của bệnh giun tim chó. Số lượng chó hoang quá lớn đang tự do lưu hành tại nông thôn và thành thị ở các quốc gia đang phát triển cùng với như một số thú rừng là những vật chủ hay reservoir trường kỳ của giun chỉ Dirofilaria. Ngoài ra còn vấn đề muỗi nữa, không thể nào có biện pháp kiểm soát hữu hiệu 100% được hết.

Loại bỏ hoàn toàn ký sinh trùng Dirofilaria ở chó là một việc không tưởng.

Đây là vấn đề nan giải mà các nhà y tế công cộng đang cố gắng bù đầu tìm cách giải quyết được chừng nào tốt chừng đó./.

Tham khảo:

- Claudio Genchi et als. Dirofilariosis in humans: Is it a Real Zoonotic Concern.

http://www.vin.com/proceedings/Proceedings.plx"CID=WSAVA2005&PID=10908&O=Generic

- James C. Wright,DVM, PhD et als  Dirofilariosis. College of Vet Med, Aubum Univ. JAVMA, Mar 1995.

http://www.avma.org/reference/zoonosis/zndirofi.asp#reference

- Subu Lucy et als. Dirofilariosis in Dogs & Humans in Kerala. Indian Journ.of Med. Research; May 2005.

http://findarticles.com/p/articles/mi_qa3867/is_200505/ai_n13643572/pg_1

- Holly Nash, DVM, MS. Heartworm in Dog

http://www.peteducation.com/article.cfm"cls=2&cat=1621&articleid=743

- Pampiglione S, Rivasi F. Human Dirofilariasis due to Dirofilaria (Nochtiella) repens: an update of world literature from 1995 to 2000. MedLine, Dec 2000.

http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/11686084

Montreal, Feb 01, 2008

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cứ bốn năm ngàn bé trai ra đời là có một bé bị một chứng bệnh di truyền làm chúng bại liệt, yếu dần và tử vong sớm. Ngày 22 tháng 6, 2023 Cơ quan quản trị thực phẩm và thuốc của Hoa Kỳ FDA chuẩn thuận một trị liệu dùng gen (di thể) mới nhất, với giá cao chưa từng thấy là trên 3 triệu đô la cho mỗi liều thuốc (may mắn là chỉ cần một liều duy nhất). Trước hết chúng ta bàn về bệnh này. Tên của bệnh là “loạn dưỡng cơ Duchenne” dịch từ danh từ khoa học quốc tế: tiếng Anh là Duchenne Muscular Dystrophy (DMD). Duchenne là tên của một bác sĩ chuyên khoa thần kinh tiên phong thế kỷ thứ 18 công bố về bịnh này (sau vài người khác) và bs đầu tiên làm sinh thiết (biopsy) các cơ bắp trong những đứa trẻ bị liệt trong bịnh này.
Một loại thuốc hứa hẹn mới sẽ là phương pháp đầu tiên trên thế giới giúp người lớn có thể mọc lại răng một cách tự nhiên, hoặc giúp trẻ em mắc chứng “anodontia” bẩm sinh có thể mọc răng như bình thường. Nghiên cứu mới do các khoa học gia tại Trường Kyoto và Trường Fukui thực hiện, dẫn đầu bởi Katsu Takahashi. Ông cho biết: “(Phương pháp) làm mọc răng mới là giấc mơ của mọi nha sĩ. Tôi đã nghiên cứu nó từ khi còn là sinh viên. Tôi tin rằng mình có thể làm được điều đó.”
Hiện nay, có khoảng 10% người dân Hoa Kỳ mắc bệnh ù tai (tinnitus) dạng nặng. Chất lượng cuộc sống bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi trong tai luôn có tiếng ù ù và o o dù không có bất kỳ tác động nào từ môi trường bên ngoài. Tuy nhiên, giờ đây, những người bị ù tai sẽ có thêm niềm hy vọng, bởi sắp có một phương pháp điều trị kết hợp sử dụng âm thanh và kích thích điện từ.
Trong thời đại khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ nhanh hơn sự ứng đối của con người như hiện nay không ít người quan ngại về nguy cơ các sản phẩm trí thông minh nhân tạo có thể thoát khỏi tầm kiểm soát của con người. Điều trớ trêu là sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật cũng từ con người mà ra. Hay nói cách khác, chính con người là tác nhân của các sản phẩm khoa học kỹ thuật tân tiến đó lại lo ngại tạo vật của mình. Tuy nhiên, thực tế còn có một nghịch lý khác, đó là cho đến ngày nay, con người thông qua sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật vẫn chưa biết rõ, hay nói chính xác hơn là vẫn chưa chứng minh được bằng phương thức khoa học khách quan ai là tác nhân thực sự của các sản phẩm khoa học kỹ thuật tân tiến đó: tâm trí hay não bộ hay cả hai?
Là cơ quan lớn nhất của cơ thể, da luôn cần được giữ cho khỏe mạnh và sạch sẽ. Thêm vào đó, một làn da khỏe đẹp luôn hấp dẫn trong mắt mọi người và là điều mà bất kỳ ai cũng muốn sở hữu. Ngành chăm sóc da (skincare) đã bùng nổ, đạt giá trị 133.9 tỷ MK vào năm 2018, và dự kiến sẽ đạt mức 200.25 tỷ MK vào năm 2026. Danh sách các sản phẩm chăm sóc da thì ngày càng dài ra với vô số thành phần gây tranh cãi. Thật khó để tìm ra những gì làn da của chúng ta thật sự cần. Trong bài này, các chuyên gia sẽ giải thích cách làn da bảo vệ chúng ta, cách giữ gìn da dẻ và những thói quen tốt đối với làn da của quý vị.
Bờ Tây Hoa Kỳ đang ở trong một tuần lễ nhiệt độ tăng cao, và các nhà dự báo thời tiết hôm đầu tuần đã cảnh báo nhiệt độ vào cuối tuần này sẽ lên quá cao tại một số khu vực đông dân cư nhất ở Arizona, đồng thời cảnh báo cư dân ở các vùng của Nevada và New Mexico nên ở trong nhà tránh nhiệt.
Bước tiến lớn tiếp theo trong điều trị ung thư có thể là vắc xin. Sau nhiều thập niên miệt mài làm việc, các khoa học gia cho biết nghiên cứu đã đạt đến một bước ngoặt quan trọng, dự đoán sẽ có thêm nhiều loại vắc xin trong 5 năm tới. Tuy nhiên, đây không phải là những loại vắc xin truyền thống giúp ngăn ngừa bệnh tật, mà là những mũi tiêm để giúp thu nhỏ khối u và ngăn chặn ung thư tái phát. Các phương pháp điều trị thử nghiệm này nhắm mục tiêu vào những loại ung thư như ung thư vú và ung thư phổi, nhưng cũng đã có một số thành tựu đối với ung thư tế bào hắc tố (melanoma) và ung thư tụy tạng được thử nghiệm trong năm nay.
Đa xơ cứng, (Multiple Sclerosis, MS), là một bệnh thần kinh thường bắt đầu ở độ tuổi từ 20 đến 40. Bệnh này phổ biến ở phụ nữ hơn ở nam giới. Bệnh đa xơ cứng xảy ra do hệ thống miễn dịch rối loạn tấn công nhầm vào não và tủy sống. Mặc dù có những điều trị mới và hiệu quả hơn, hầu hết những người bị chứng bệnh này vẫn ngày càng bệnh nặng hơn theo thời gian.
Quý vị có thường bị đau lưng mỗi khi bị cúm, cảm lạnh, hay khi bị COVID? Đau lưng là triệu chứng khá phổ biến ở nhiều loại bệnh. Nó không phải là một triệu chứng kiểu hên xui, mà là kết quả của sự tương tác phức tạp giữa hệ thống miễn dịch và não, được gọi là “khớp thần kinh miễn dịch” (neuroimmune synapse). Khi ta bị bệnh, kết quả của ‘cuộc trò chuyện’ giữa hệ thống miễn dịch và não bộ khá là thú vị, bởi vì sự chú ý sẽ được tập trung đặc biệt ở vùng lưng dưới. Đây là một trong những vùng nhạy cảm nhất của cơ thể trước các mối đe dọa đối với miễn dịch thần kinh (neuroimmune).
Sau biến cố 30 tháng 4, 1975, người Việt Nam tạo nên một cộng đồng hải ngoại chừng trên 4 triệu người, tương đương với dân số của New Zealand. Cuộc bùng nổ dân số ra hải ngoại này cũng gây nhiều ly tán, con cái thất lạc cha mẹ. Nhờ các tiến bộ về công nghệ gien và DNA chúng ta được chứng kiến những cuộc tái ngộ, đoàn tụ tưởng như không bao giờ có được, đặc biệt là những người con lai “mồ côi” tìm lại được người cha quân nhân Mỹ từng chiến đấu tại Việt Nam sau gần 50 năm. Chúng ta thử tìm hiểu những tiến bộ về lĩnh vực thử máu hay DNA để thiết lập quan hệ cha-con trên bình diện sinh học.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.