Hôm nay,  

Câu Chuyện Thầy Lang: Bệnh Bà Bầu

2/10/201200:00:00(View: 8246)
Câu Chuyện Thầy Lang: Bệnh Bà Bầu

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Mặc dù chỉ có một số bệnh có thể ngăn ngừa người nữ mang thai nhưng nhiều bệnh có thể gây khó khăn cho thai nhi và bà mẹ. Sau đây là một số bệnh cần được lưu ý.
1.Bệnh tiểu đường.
Khi mang thai, một số kích thích tố liên hệ tới thai nghén như estrogen, human chorionic gonadopin, lactogen của nhau (placenta) được tiết ra. Các kích thích tố này giảm tác dụng của insulin, do đó tụy tạng phải làm việc nhiều hơn để sản xuất thêm. Nếu insulin vẫn không đủ thì dấu hiệu bệnh tiểu đường sẽ xuất hiện. Ở một số người, hiện tượng này mất đi sau khi sanh, nhưng hơn 50% trường hợp có nhiều nguy cơ mắc bệnh tiểu đường trong tương lai.
Rủi ro đưa tới tiểu đường ở bà bầu gồm có: tuổi từ 30 trở lên; gia đình có người bị tiểu đường; đã sanh con nặng kí; mẹ mập phì, cao huyết áp.
Mọi phụ nữ có thai đều cần được theo dõi để ý kỹ các dấu hiệu của bệnh này, vì nếu không sớm khám phá và không điều trị, sẽ có nhiều nguy cơ tử vong cho cả mẹ lẫn con.
Người mẹ có thể bị nhiễm độc, rút ngắn thai kỳ (sinh non), cao huyết áp cộng với các biến chứng thưởng lệ của tiểu đường như bệnh võng mạc, thận, giây thần kinh.
Thai nhi có thể bị khuyết tật thần kinh, bệnh tim hoặc kém phát triển cột sống.
Tiểu đường do thai nghén thường xẩy ra vào giữa thời kỳ có thai. Người mẹ cần được thử nghiệm đường trong máu lúc mới có thai và vào tuần lễ thứ từ 24-26 của thai kỳ.
Nếu xác định có bệnh thì mẹ phải ăn uống theo hướng dẫn của bác sĩ và chuyên viên dinh dưỡng cũng như điều trị đúng mức, thường là với insulin.
2-Cao huyết áp.
Huyết áp cao có thể là kéo dài hay tạm thời.
Huyết áp cao kéo dài gây tử vong cho thai nhi và suy nhược chức năng của nhau thai.
Huyết áp cao tạm thời có thể là dấu hiệu của nhiễm độc huyết thai nghén (toxemia of pregnancy) với hậu quả là tai biến mạch máu não, rối loạn đông máu ở người mẹ; nhau thai giảm chức năng, tách sớm và thai nhi sanh non. Nguyên nhân của nhiễm độc trong giai đoạn thai nghén chưa được tìm ra. Một số ý kiến cho là vì mẹ sụt cân khi thai nghén, kém dinh dưỡng, cao huyết áp, không được chăm sóc tiền thai sản, không tiêu thụ đầy đủ calcium. Những trường hợp này thường thấy ở những bà mẹ ít tuổi hoặc trên 35.
Điều trị cao huyết áp khi có thai rất khó khăn và phải hết sức thận trọng, vì dược phẩm có thể gây nhiều rủi ro cho thai nhi, mà nếu không chữa thì lại có nhiều biến chứng. Do đó, việc áp dụng một nếp sống hợp lý như vận động cơ thể, không quá kí, giảm thiểu stress…để phòng tránh các nguy cơ đưa tới cao huyết áp là điều rất cần thiết.
3-Ứ nước trong cơ thể.
Sưng phù tứ chi, nhất là bàn chân và cổ chân là chuyện thường gặp ở người có thai. Đó là do cơ thể giữ lại nước vào tháng cuối của thai kỳ vì khối lượng máu của mẹ gia tăng. Hiện tượng này là bình thường và sẽ mất dần đi sau khi sanh khoảng một tuần.
Nhưng nếu ứ đọng chất lỏng ở các phần khác của cơ thể đồng thời huyết áp lên cao, nước tiểu có nhiều ure thì lại là điều cần quan tâm. Đây có thể là dấu hiệu của chứng tiền sản kinh (pre-eclampsia), đôi khi đưa tới Sản kinh (Eclampsia), một tình trạng hiếm hoi nhưng cực kỳ nghiêm trọng, có thể đe dọa tính mệnh của cả mẹ lẫn con.
Khi thấy các dấu hiệu này, người bệnh cần thông báo ngay cho bác sĩ điều trị.
4-Thiếu máu
Số lượng hồng huyết cầu và huyết cầu tố người có thai thường ở dưới mức trung bình. Nguyên nhân thông thường là do thiếu chất sắt trong thực phẩm hoặc thiếu các yếu tố khác như chất đạm, sinh tố B6, B12, C, folic acid, khoáng đồng; hoặc do mất máu mà không được thay thế.
Dinh dưỡng với đầy đủ khoáng chất sắt trong thực phẩm, nhất là thịt, gan, là điều cần thiết. Đôi khi bác sĩ cũng cho uống thêm từ 30-60 mg sắt mỗi ngày.
5- Quá nhẹ hoặc quá nặng cân.
Khi người mẹ sụt cân đến hơn 15% trọng lượng cơ thể thì dễ bị bệnh tim, phổi, thiếu hồng cầu, nhau thai sẽ nhỏ và nhẹ, ít phần tử tiếp nhận dinh dưỡng và thải chất bã, do đó có tác dụng xấu cho thai.
Nhưng tăng cân quá mức cũng không tốt, có thể đưa tới cao huyết áp, tiểu đường, thai nhi quá lớn. Thai nhi sinh ra mà nặng trên 4,5kg cũng có rủi ro bệnh tật, đôi khi thai quá lớn, người mẹ phải sanh bằng cách mổ dạ con. Tăng cân quá mức thường là do tiêu thụ nhiều chất béo, carbohydrat, nhiều năng lượng mà lại ít đạm, khoáng và sinh tố.

Khi người mẹ có thai, tăng cân vừa phải là chuyện bình thường. Mức độ tăng tung bình cho đến cuối thai kỳ khoảng từ 9 kg đến 12.5 kg là vừa phải, đứa bé sinh ra có trọng lượng khoảng 3.5 kg là tốt.
Sự tăng cân cũng cần diễn ra đều đặn trong suốt 9 tháng 10 ngày có thai. Ba tháng đầu khoảng 0,7kg tới 1,4 kg là vừa. Sau đó thì cứ mỗi tuần lễ lên khoảng 0.3 kg cho tới ngày sinh.
Tăng cân quá nhanh cũng không tốt cho cả mẹ lẫn con. Người mẹ sẽ đau lưng, nhức bắp thịt, mau mệt, nhiều khi sưng phù chân tay vì ứ nước.
6- Ợ chua (Heartburn).
Sự lớn lên của thai nhi gây ra sức ép vào bao tử. Thực phẩm và dịch bao tử bị dồn ngược lên thực quản và đưa đến ợ chua. Bệnh thường xẩy ra vào tháng cuối của thai kỳ, nhiều nhất là sau khi ăn hoặc nằm nghỉ.
Để hạn chế sự khó chịu này, ta có thể chia thực phẩm ra nhiều bữa nhỏ trong ngày; tránh ăn hai giờ trước khi đi ngủ; tránh dùng thực phẩm kích thích cay chua kích thích bao tử.
Cũng có thể kê đầu giường cao hơn khoảng 6 phân. Với tư thế nằm như vậy có thể giúp giảm bớt ợ chua.
Chỉ dùng thuốc chống acid khi có hướng dẫn của thầy thuốc.
7- Táo bón.
Vào mấy tháng cuối của thai kỳ, nhiều bà mẹ than phiền bị táo bón. Phân thường rắn và vài ngày mới đại tiện một lần.
Nguyên do có thể là thai lớn, tạo sức ép vào hệ tiêu hóa hoặc do giảm sức căng của bắp thịt vùng bụng do đó sự tiêu hóa thực phẩm chậm lại, phân nằm ở ruột già lâu hơn.
Để giảm táo bón, khi mang thai nên uống nhiều nước, ăn nhiều rau trái có chất xơ, ngũ cốc, hạt nguyên vẹn có nhiều cám và năng vận động cơ thể theo chỉ dẫn của thầy thuốc.
Chỉ dùng thuốc nhuận tràng khi có hướng dẫn của thầy thuốc để tránh tác dụng phụ.
Một triệu chứng khác là người mẹ mang thai tới cuối thai kỳ thường hay tiểu tiện nhiều lần hơn, vì thai ép vào bàng quang. làm căng lên và gia tăng nhu cầu tiểu tiện.
8- Nôn ói (Morning sickness).
Triệu chứng này thường xẩy ra vào tháng đầu của thai kỳ, khi mà kích thích tố human chorionic gonadotropin lên cao để giúp noãn sào thụ tinh làm tổ ở dạ con. Tới tháng thứ tư, kích thích tố này giảm thì nôn ói cũng giảm theo. Bệnh thường thấy ở phụ nữ có thai lần đầu, còn trẻ, người mập phì.
Nôn ói có thể xẩy ra bất cứ lúc nào trong ngày, nhưng thường là vào sáng sớm, sau khi thức dậy. Có người bị nhiều, có người chỉ bị nhẹ trong ít ngày.
Không có thuốc và cũng không nên dùng thuốc để giải quyết hiện tượng tự nhiên “Cơn đau buổi sáng” này vì chỉ thoảng qua và không gây hậu quả trầm trọng. Tuy nhiên có thể áp dụng một số phương thức sau đây để giảm bớt:
-Buổi sáng thức dậy nên ăn một miếng bánh khô mặn;
-Chia thực phẩm trong ngày ra làm nhiều bữa nhỏ;
-Tránh thực phẩm nhiều chất béo;
-Tránh những chất kích thích bao tử như cay chua;
-Tránh thực phẩm có mùi dễ gây buồn nôn, như cá tanh;
-Tránh rượu, cà phê, thuốc lá;
-Khi thấy muốn nôn ói thì hít thở sâu một hơi thật dài để đưa nhiều không khí trong lành vào phổi rồi thư giãn tâm hồn.
9- Thèm món ăn bất thường.
Có người khi có thai thèm ăn chua, ăn kem, ăn thực phẩm mặn... Kinh nghiệm dân gian cho rằng khi phụ nữ thèm ăn như vậy là dấu hiệu có thai.
Để thỏa mãn, có thể ăn một chút các món ăn đó cũng không sao.
Nhưng cũng có người thèm chất không phải là có dinh dưỡng như đất sét, tro, sơn, đá, quần áo... Đây là hiện tượng “dị thực” (Pica).
Sự thèm ăn rất kỳ lạ này là có thật nhưng chưa có giải thích tại sao. Có ý kiến cho Pica là dấu hiệu của thiếu khoáng sắt vì khi dùng khoáng này thì không còn cảm giác thèm ăn kì lạ như vậy nữa.
Dị thực đều không tốt cho cơ thể, nhất là khi có thai, nên cần được bác sĩ khám và thảo luận cách đối phó. Đã có trường hợp vì dị thực mà người mang thai bị nghẹt ruột, sưng phù, sinh non và có thể đưa tới tử vong.
Kết luận
Có thai là niềm vui mừng không những cho người mẹ mà còn cho cảc gia đình lớn nhỏ. Nhưng có thai mà “mẹ tròn, con vuông” thì hạmh phúc lại tăng thêm. Cho nên, khi có thai, nên đi bác sĩ khám tiền thai để biết tình trạng của thai nhi cũng như sớm tìm ra những rủi ro bệnh tật ở người mẹ rồi giải quyết đối phó.
Để khi đứa con sinh ra, cả gia đình vui lên trước tiếng khóc chào đời của đứa bé khỏe mạnh và nụ cười thỏa mãn của người mẹ sau chin tháng mang nặng đẻ đau.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Arlington-Texas
www.bsnguyenyduc.com.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Nước Mỹ có vấn đề về uống rượu. Theo nghiên cứu mới của Trung tâm Kiểm soát và Phòng Ngừa Dịch Bệnh (CDC), việc tiêu thụ rượu quá mức đã góp phần gây ra ước tính một phần tám số ca tử vong, hay12.9 phần trăm trên tổng số người Mỹ từ 20 đến 64 tuổi. Uống quá nhiều rượu cũng là nguyên nhân gây ra 1/5 số ca tử vong - 20,3% - ở người Mỹ từ 20 đến 49 tuổi, theo nghiên cứu được công bố vào tuần trước trên tạp chí JAMA Network Open.
Vắn tắt, người càng lớn tuổi, số lượng tế bào thần kinh giảm và khả năng về tâm trí sẽ giảm đi. Một số triệu chứng nhẹ như hay quên, hay lẫn lộn có thể chấp nhận như là sự lão hoá bình thường. Khi các triệu chứng này gia tăng, tiến triển đến mức ảnh hưởng đến cuộc sống thường nhật, lúc đó người ta dùng từ "dementia" hay "mất trí" theo nghĩa đen, hay bịnh lẫn. Có nhiều nguyên nhân cho dementia. Bịnh Alzheimer là nguyên nhân của phần lớn người mắc dementia. Một số nguyên nhân dementia chữa được, chưa có thuốc thay đổi được bịnh Alzheimer (disease-modifying drugs), chỉ có những thuốc giúp giảm triệu chứng thôi (symptomatic treatment).
Các Telomere* đóng một vai trò thiết yếu trong việc xác định số lần một tế bào có thể phân chia. Telomere là 1 đoạn DNA có trình tự (TTAGGG) lặp lại nhiều lần ở đầu mỗi nhiễm sắc thể, có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ phân tử DNA khỏi các tác động gây hại và sự mất ổn định của hệ genome. Trong chu trình của một tế bào bình thường, quá trình phân bào sẽ khiến cho một phần của telomere bị mất đi. Khi độ dài của telomere đạt tới mức giới hạn thì tế bào sẽ tự chết theo chương trình (apotosis**). Do vậy, độ dài của telomere có thể coi như chiếc đồng hồ sinh học để xác định “tuổi thọ” của tế bào và các cơ quan.
Mùa đông đang đến rất nhanh và thời tiết lạnh hơn, điều quan trọng hơn bao giờ hết là quý vị phải tiêm vắc-xin và liều tăng cường chống lại COVID-19 cho bản thân và gia đình. Đối với những người từ 65 tuổi trở lên, việc tiêm liều tăng cường COVID-19 loại cập nhật là cực kỳ quan trọng vì nguy cơ mắc bệnh nặng do COVID-19 tăng lên theo tuổi tác.
Việc các bác sĩ có thể nhìn xuyên thấu bên trong cơ thể bệnh nhân mà không cần phải rạch một đường nào từng là một khái niệm thần kỳ. Cho đến nay, hình ảnh y tế (medical imaging) trong khoa quang tuyến đã trải qua một chặng đường dài, và các kỹ thuật mới nhất dựa vào trí tuệ nhân tạo (AI) sẽ còn tiến xa hơn nữa: chúng khai thác khả năng tính toán khổng lồ của AI và khả năng học hỏi vô giới hạn để tận dụng triệt để các phương pháp dò chụp trên cơ thể, tìm ra những điều khác thường mà mắt người có thể bỏ sót.
Hội đồng Nobel tại Viện Karolinska ngày 3/10/22 đã quyết định trao Giải Nobel Sinh lý học hoặc Y học năm 2022 cho Svante Pääbo vì những khám phá của ông liên quan đến bộ gen của những hominin (cũng thuộc giống người, tương tự như “người khôn” [homo sapiens] chúng ta hiện nay) đã tuyệt chủng và sự tiến hóa của loài người. Svante Pääbo sinh ngày 20 tháng 4 năm 1955 tại Stockholm, Thụy Điển. Mẹ của ông là nhà hóa học người Estonia Karin Pääbo (1925–2013), từng trốn thoát khỏi Estonia bị Liên Xô xâm lược vào năm 1944 và đến Thụy Điển tị nạn trong Thế chiến thứ hai. Ông là con ngoại hôn của nhà hóa sinh người Thụy Điển Sune Bergström (1916-2004), và cha ông cũng từng được giải Nobel về Sinh lý học hoặc Y học (năm 1982).
Tại văn phòng VM Clinic tọa lạc số 8251 Westminster Blvd, Westminster CA 92683 (phòng mạch BS. Chính mai và BS. Thảo Võ.), vào lúc 8 giờ sáng Chủ Nhật ngày 30 tháng 10 năm 2022, VM CLINIC COMMUNITY WALK 2022 đã tổ chức chương trình đi bộ “Sức Khỏe Cho Cả Nhà.” Chương trình đi bộ còn có sự hợp tác của một số các đơn vị y tế như Hội Ung Thư Việt Mỹ, OC Autism Foundation, Lavina Pharmacy, Excel Rehab and Wellness, SJVRC (San Jose Vietnamese Running Club), Regal Medical Group, ADOC, Lakeside, Physical Therapy, Hội Bảo Vệ Sức Khỏe Tâm Thần, v.v…
Phát hiện ung thư từ sớm, trước khi nó di căn, có thể là vấn đề sống còn. Đây là lý do tại sao các bác sĩ khuyên chúng ta nên thường xuyên truy tầm một số loại ung thư phổ biến bằng nhiều phương pháp khác nhau. Ví dụ: nội soi đại tràng để tầm soát ung thư ruột kết, hay chụp nhũ ảnh để truy tầm ung thư vú. Dù quan trọng, nhưng cũng khó để có thể làm tất cả các xét nghiệm, bởi vì chúng tốn kém và đôi khi còn khiến bệnh nhân khó chịu. Nhưng mọi chuyện sẽ khác nếu có một xét nghiệm máu duy nhất có thể truy tầm được hầu hết các loại ung thư phổ biến cùng lúc. Đây là tương lai đầy hứa hẹn của các xét nghiệm phát hiện sớm đa ung thư (multicancer early detection tests – MCED). Năm nay, Tổng thống Joe Biden đã xác định việc phát triển các xét nghiệm MCED là một ưu tiên của Cancer Moonshot, nỗ lực liên bang trị giá 1.8 tỷ đô la nhằm giảm tỷ lệ tử vong do ung thư và cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân sau ung thư cũng như đang sống chung với b
Ngày 14 tháng 9, 2022, Tổng Giám đốc WHO, Tedros Adhanom Ghebreyesus tuyên bố thế giới chưa bao giờ ở trong tình trạng tốt hơn để chấm dứt đại dịch COVID-19 và kêu gọi các quốc gia tiếp tục nỗ lực chống lại loại virus đã giết chết hơn sáu triệu người. Tuy nhiên, ông nói: “Chúng ta vẫn chưa đến đó”. Đây được xem là nhận xét lạc quan nhất từ cơ quan Liên Hiệp Quốc kể từ khi WHO tuyên bố COVID-19 là tình trạng khẩn cấp quốc tế và gọi virus này là đại dịch vào tháng 3 năm 2020 (VOA).
Virus bệnh đậu khỉ là một poxvirus hình giống như viên gạch. Poxvirus là loại virus hình viên gạch hoặc hình bầu dục với bộ gen DNA sợi đôi lớn (large double stranded DNA genome)...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.