Hôm nay,  

Bệnh Cong Vẹo Cột Sống: Cần Được Chú Ý Nhiều Hơn

24/05/202400:00:00(Xem: 2625)

veo cot song

Cong vẹo cột sống là một tình trạng phổ biến nhưng lại ít được quan tâm. (Nguồn: Chụp lại từ YouTube)


Cael là một thiếu niên 15 tuổi bình thường – cho đến khi cậu được phát hiện có cột sống bị cong vẹo bất thường.
 
“Em cảm thấy mình giống như Thằng Gù ở Nhà thờ Đức Bà vậy đó,” Cael nói với CBC News, nhớ lại quãng thời gian hai năm chờ đợi để được phẫu thuật cột sống, đầy cảm xúc và khốc liệt, và trong thời gian đó, đường cong cột sống của cậu đã phát triển lên tới 108 độ.
 
Bệnh cong vẹo cột sống [Scoliosis] là tình trạng cột sống bị xoắn lại và cong vẹo bất thường, có thể phát triển ở bất kỳ lứa tuổi nào, nhưng chủ yếu xảy ra trong giai đoạn tăng trưởng nhanh ở trẻ em, và là một phần của quá trình lão hóa cột sống ở người cao niên trên 60 tuổi.
 
Trong số tất cả các loại cong vẹo cột sống ở người trẻ, chứng cong vẹo cột sống tự phát [idiopathic scoliosis] ở thanh thiếu niên là phổ biến nhất, chiếm tới 9 trên 10 trường hợp, và trên toàn thế giới, cứ 20 thanh thiếu niên thì có 1 người bị ảnh hưởng. Còn ở những người cao niên, tỷ lệ bị ảnh hưởng lên đến 2/3.
 
Trong lĩnh vực y tế, nghiên cứu và giáo dục liên quan đến bệnh cong vẹo cột sống, vẫn còn nhiều thiếu sót và chênh lệch trên toàn thế giới. Mặc dù bệnh cong vẹo cột sống khá là phổ biến, nó thường không được chẩn đoán hoặc bị chẩn đoán trễ như trường hợp của Cael. Bệnh này cũng không nhận được nhiều sự quan tâm trong giáo dục sức khỏe và nghiên cứu lâm sàng, dẫn đến những thiếu sót đáng kể trong việc chăm sóc và điều trị. Sự thiếu nhận thức chung này có tác động nghiêm trọng đến hàng ngàn người như Cael.
 
Những thiếu sót trong việc chăm sóc
 
Ở Hoa Kỳ, chưa đến một nửa số tiểu bang có quy định về việc kiểm tra, sàng lọc bệnh cong vẹo cột sống cho trẻ ở trường học. Tệ hơn nữa, Canada đã ngừng cho kiểm tra từ năm 1979 vì nó được coi là không hiệu quả về mặt chi phí.
 
Phương pháp sàng lọc của bác sĩ nhi khoa rất khác nhau và một số trường hợp cong vẹo cột sống ở trẻ em chỉ được phát hiện khi chụp X-quang ngực, không liên quan gì đến cột sống, lại cho thấy cột sống bị cong vẹo. Với khoảng 30% trường hợp là do di truyền, cha mẹ có thể không nhận ra các dấu hiệu ban đầu.
 
Phương pháp chăm sóc được khuyến nghị ở Bắc Mỹ bao gồm việc mang đai nẹp cho những trường hợp bị cong vẹo nhẹ đến trung bình (25° đến 45°), và phẫu thuật cho những trường hợp đường cong vượt quá 45°. Đáng kinh ngạc là 32% trẻ em Canada, như Cael, phải chờ đến khi gặp được chuyên gia thì mới phát hiện ra bệnh cong vẹo cột sống, và đến lúc đó độ cong đã khá là nghiêm trọng.
 
Mặc dù đã ghi nhận thành công trong việc kiểm soát chứng cong vẹo cột sống thông qua sàng lọc sớm, phục hồi chức năng bằng tập thể dục và mang đai nẹp, giáo dục chăm sóc sức khỏe toàn cầu thường bỏ qua tình trạng này. Sự thiếu nhận thức chung về căn bệnh đã để lại hậu quả nghiêm trọng cho hàng ngàn người như Cael.
 
Chênh lệch giới tính
 
Không rõ tại sao chứng cong vẹo cột sống tự phát ở thanh thiếu niên lại ảnh hưởng chủ yếu đến phái nữ. Độ cong càng nghiêm trọng thì khả năng bệnh nhân là nữ càng cao. Do đặc điểm khác biệt về sinh học, phụ nữ cũng phải đối mặt với nguy cơ biến dạng tiến triển cao gấp 5 lần và có khả năng phải phẫu thuật cao gấp 10 lần so với nam giới.
 
Mặc dù việc mang thai và sinh nở nhìn chung không có vấn đề lớn, phụ nữ bị cong vẹo cột sống thường gặp khó khăn trong việc kiểm soát cơn đau trong quá trình chuyển dạ, với tỷ lệ thất bại khi gây tê ngoài màng cứng cũng cao hơn. Hơn nữa, họ thường bị đau lưng khi mang thai và tình trạng cong vẹo cột sống có thể trầm trọng hơn sau khi sinh.
 
Rào cản trong tiếp cận chăm sóc sức khỏe
 
Khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe ở Hoa Kỳ bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố bao gồm chủng tộc, thu nhập và phạm vi bảo hiểm y tế.
 
Bệnh nhân có các gói bảo hiểm tốt hơn có khuynh hướng tìm kiếm dịch vụ chăm sóc chỉnh hình nhi khoa ở độ tuổi trẻ hơn. Những người có bảo hiểm công thường sẽ bị cong vẹo nặng hơn trước khi được gặp bác sĩ chuyên khoa; đặc biệt là ở những bệnh nhân gốc da đen có bảo hiểm công, khả năng được chẩn đoán ở giai đoạn đủ sớm để điều trị bằng đai nẹp thấp hơn 67% so với bệnh nhân gốc da đen có bảo hiểm tư nhân.
 
Hệ thống chăm sóc sức khỏe của Canada có chi trả cho việc phẫu thuật ghép cột sống cho bệnh cong vẹo cột sống nặng. Còn ở Hoa Kỳ, bệnh nhân sẽ tự chi trả theo các gói khác nhau do thiếu chương trình bảo hiểm chung về bệnh này trên toàn quốc.
 
Những người không có bảo hiểm thường không đủ khả năng chi trả cho phẫu thuật.
 
Nhưng ngay cả với chính sách bảo hiểm toàn diện của Canada, bệnh nhân thường cũng phải chờ cả năm mới được phẫu thuật do thiếu nhân lực. Do sự khác biệt trong khu vực về nguồn lực như khả năng tiếp cận bác sĩ phẫu thuật cột sống, nguồn tài trợ và cơ sở vật chất chuyên biệt, một số trẻ em, như Cael, thậm chí còn phải chờ đợi lâu hơn. Trong thời gian chờ đợi, họ sẽ phải đối mặt với những gánh nặng về thể chất, cảm xúc và tâm lý, khi độ cong cột sống ngày càng trở nên tồi tệ hơn.
 
Việc phẫu thuật chậm trễ ở Canada đã gây thiệt hại cho hệ thống y tế 44.6 triệu MK do các ca phẫu thuật phức tạp hơn, thời gian nằm viện kéo dài, tỷ lệ phải vào bệnh viện lại và phẫu thuật lại cũng tăng lên.
 
Sự chênh lệch về nhân sự và nghiên cứu
 
Trong số các bác sĩ phẫu thuật cột sống, có không tới 5% là nữ bác sĩ. Trong môi trường do nam giới thống trị, các nữ bác sĩ thường gặp phải những rào cản vô hình, thường được gọi là “hiệu ứng trần kính” [glass-ceiling]. Hơn nữa, việc thiếu hụt các nữ bác sĩ giàu kinh nghiệm để học hỏi và nhận sự hướng dẫn cũng làm khó khăn cho sự phát triển và giữ chân các nữ bác sĩ nhân tài trong lĩnh vực này.
 
Hơn nữa, kinh phí nghiên cứu cho các bệnh như bệnh cong vẹo cột sống, chủ yếu ảnh hưởng đến phụ nữ, thường luôn kém rất xa so với việc nguồn kinh phí tài trợ cho các bệnh phổ biến ở nam giới. Việc cải thiện sự đa dạng trong lực lượng lao động là một khía cạnh quan trọng để giải quyết sự chênh lệch y tế và định hình các chương trình nghiên cứu.
 
Có rất nhiều điều bất bình đẳng tồn tại trong nghiên cứu và điều trị bệnh cong vẹo cột sống. Tác động của việc thiếu nhận thức và chậm trễ điều trị không chỉ nằm ở những thách thức về thể chất. Về mặt tinh thần, bệnh nhân và gia đình sẽ phải gánh chịu nhiều đau khổ, còn về kinh tế, đó là nỗi lo trước gánh nặng tài chánh đáng kể trong tương lai.
 
Tóm lại, chúng ta cần phải dành nhiều sự quan tâm hơn cho những đối tượng bị bỏ sót này.

Nguyên Hòa biên dịch
Nguồn: “Breaking the curve: A call for comprehensive scoliosis awareness and care” được đăng trên trang TheConversation.com.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Không thể nhìn thấy bằng mắt thường, không có mùi và cũng chẳng có vị, những lượng nhỏ chì (lead) hiện diện trong các vật dụng mà chúng ta sử dụng hàng ngày, trong nhà chúng ta ở, và cả trong nước chúng ta uống. Thậm chí, chì còn xuất hiện trong các bình nước tái sử dụng, như việc phát hiện ra chì trong đáy ly Stanley. Vụ việc đã làm dấy lên nhiều tranh cãi và khơi dậy sự chú ý của người tiêu dùng đối với một vấn đề đã tồn tại từ rất lâu.
Hôm cuối tháng Hai vừa qua, Tòa Tối cao của bang Alabama phán quyết rằng: “Phôi đông lạnh là trẻ em.” Tuyên án này tuy chỉ có uy lực theo Hiến pháp và luật pháp ở Alabama, tuy nhiên, sự bắt đầu này tạo ra tiền lệ cho tất cả những vụ án vế sau của tất cả các bang khác và kề cả hiến pháp Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến thời kỳ cho phép phá thai. Nhiều người và nhiều cơ quan sẽ phải chịu trách nhiệm, sẽ bị trừng phạt nếu làm hỏng phôi thai, như một tội giết trẻ em. Phán quyết của Alabama, được công bố hôm thứ Sáu, bắt nguồn từ hai vụ kiện của ba nhóm cha mẹ đã trải qua thủ tục thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) để sinh con và sau đó chọn đông lạnh số phôi còn lại. Giáo sư Nicole Huberfeld của Trường Luật Đại học Boston cho biết, đó cũng là một quyết định có thể gây ảnh hưởng lan rộng đến việc sử dụng các phương pháp điều trị sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Thử tưởng tượng rằng chỉ cần uống một viên thuốc là quý vị sẽ tràn trề năng lượng, da dẻ mịn màng, và tim mạch khỏe re? Các viễn cảnh hấp dẫn này vẫy gọi mãnh liệt mỗi khi chúng ta dạo quanh qua các quầy hàng bán các loại thực dược phẩm bổ dưỡng trong hiệu thuốc, từ các loại viên uống dầu cá (fish oil), bột collagen (collagen powder), kẹo bổ sung ma-giê và muôn hình vạn trạng các loại vitamin.
Hơn một thập niên từ sau cái chết bất ngờ của mẹ, Sehrish Sayani mắc chứng rối loạn tâm thần hậu chấn (PTSD). Suốt những năm đó, những cơn hoảng loạn dữ dội nhất đã giảm dần, nhưng các triệu chứng như nghi ngại thái quá (hypervigilance), trở nên đặc biệt nhạy cảm với một số yếu tố và những giấc ngủ chập chờn đã trở nên quen thuộc trong cuộc sống của cô.
Trong cuốn tiểu thuyết Chuyện Hai Thành Phố (A Tale of Two Cities) của Charles Dickens, được xuất bản năm 1859 và lấy bối cảnh thời Cách Mạng Pháp, có đoạn viết: “Đó là thời đại tốt đẹp nhất, cũng là thời đại tồi tệ nhất, đó là thời đại của sự khôn ngoan, cũng là thời đại của sự ngu xuẩn.” Đại dịch COVID-19 cũng là một thời đại như thế. Một mặt, khoa học đã cứu sống được nhiều người. Chưa đầy một năm sau khi phát hiện virus, Hoa Kỳ đã tạo ra và thử nghiệm vắc xin, rồi cho sản xuất, phân phối và triển khai tiêm chủng hàng loạt miễn phí cho người dân. Ước tính vắc xin COVID đã cứu được ít nhất 3.2 triệu người chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Những thành tựu này tạo ra hy vọng về việc chúng ta có thể nhanh chóng ứng phó với đại dịch trong tương lai.
Hơn một thập niên trước, Shria Kumar, bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa và là chuyên gia nghiên cứu tại Đại học Miami, bắt đầu chú ý đến một dấu hiệu đáng lo ngại. Có một số bệnh nhân ung thư dạ dày đến gặp bà ở độ tuổi rất trẻ, và rất nhiều người là phụ nữ. Khuynh hướng này vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay. Các khoa học gia đang nỗ lực tìm hiểu tại sao điều này lại xảy ra. Vào mùa xuân năm ngoái, họ đã xác nhận rằng hiện tượng này đang diễn ra ở Hoa Kỳ. Sau khi kiểm tra hệ thống các cơ sở dữ liệu chứa các thông tin chi tiết về các trường hợp ung thư ở nhiều tiểu bang trên toàn quốc, các nhà nghiên cứu nhận thấy ung thư dạ dày đang gia tăng nhanh hơn ở phụ nữ trẻ.
Wegovy, Ozempic và Mounjaro là các loại thuốc giảm cân và điều trị tiểu đường đã gây được tiếng vang lớn trong lĩnh vực tin tức y tế. Chúng nhắm vào các con đường điều tiết liên quan đến cả bệnh béo phì và tiểu đường, và được nhiều người coi là bước đột phá trong việc kiểm soát cân nặng, đường và huyết áp. Nhưng liệu những loại thuốc này có giải quyết được nguyên nhân gốc rễ của hội chứng chuyển hóa (metabolic disease) không? Điều gì đã thúc đẩy sự phát triển của chúng từ ban đầu?
Gần đây quý vị vừa bị cảm lạnh, cúm, RSV hoặc COVID, bệnh đã qua nhưng mãi vẫn không thể hết ho? Rất nhiều người bị giống như vậy. Triệu chứng này có thể tồn tại trong nhiều tuần sau khi cơ thể chúng ta đã loại bỏ vi-rút. Michael Shiloh, một bác sĩ chuyên nghiên cứu bệnh truyền nhiễm tại Trung tâm Y tế UT Southwestern cho biết những bệnh nhân bị ho thường kể là họ đã bị bịnh từ 8 tuần trước khi đến gặp ông. Ông nói: “Chúng tôi thực sự không thể phát hiện thấy vi rút gì ở những người này nữa nhưng họ vẫn bị ho.”
Bằng cách bắt chước cơ chế bảo vệ của cơ thể chống lại nhiễm trùng do vi khuẩn, một nhóm nghiên cứu ở Lund, Thụy điển hy vọng có thể ngăn chặn tình trạng viêm phát triển thành nhiễm trùng máu, theo đài truyền hình SVT, Thụy điển. Nhiễm trùng máu là tình trạng nhiễm trùng có thể đe dọa tính mạng. Thông thường nguyên nhân là do viêm phổi, nhiễm trùng đường tiểu hoặc nhiễm trùng vết thương. Nghiên cứu từ Lund cho thấy hiện nhiễm trùng huyết phổ biến hơn so với trước đây.
Ngày nay, có nhiều người lớn hơn bao giờ hết đang phải đối mặt với chứng rối loạn khả năng tập trung- thiếu khả năng chú ý, hay ADHD. Người ta nghi ngờ nguyên nhân chính của vấn đề này là do công nghệ hiện đại đang gây áp lực lên não bộ của họ. Trong khi có gần 10% trẻ em được chẩn đoán mắc chứng ADHD, một phân tích tổng hợp gần đây từ nhiều nghiên cứu cho thấy gần 6.8% người lớn mắc chứng ADHD – tăng từ 4.4% vào năm 2003.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.