Hôm nay,  

Dầu Hỏa Ở Iraq - Trung Tâm Của Nhiều Cuộc Khủng Hoảng

30/03/200300:00:00(Xem: 5860)
Vấn đề dầu hỏa là trung tâm của cuộc khủng hoảng dẫn đến cuộc chiến hiện nay giữa Hoa Kỳ và Iraq. Trong hơn một thế kỷ qua, các siêu cường chính của thế giới đã đấm đá lẫn nhau để nắm cho được nguồn tài nguyên khổng lồ và sức mạnh chiến lược này. Các công ty dầu hỏa quốc tế lớn đều là các công ty đặt đại bản doanh ở Hoa Kỳ và Anh Quốc cùng có một ước vọng giành lại quyền điều hành các mỏ dầu ở Iraq đã bị quốc hữu hóa từ năm 1972.
Không mấy người ở ngoài ngành công nghiệp này hiểu được lợi nhuận thu về từ ngành kinh doanh này ở Iraq thực sự to lớn như thế nào và cái giá mà lịch sử của ngành dầu hỏa thế giới phải trả chính là lịch sử của quyền lực, của quốc gia kình địch lẫn nhau và của sức mạnh quân sự.
Tại sao các công ty hàng đầu về dầu hỏa lại thèm thuồng dầu hoả của Iraq đến như vậy"
Dầu hỏa ở Iraq có một hấp lực đặc biệt đối với các công ty dầu quốc tế vì ba yếu tố chính:
1. Chất lượng tốt. Quả thật dầu hỏa lấy lên từ lòng đất Iraq là một loại sản phẩm có giá trị cao vì nó chứa nhiều thuộc tính hóa học đáng chú ý, hàm lượng carbon cao đặc biệt, nhẹ và hàm lượng sulfur thấp; những đặc tính quý này giúp dầu hỏa Iraq thích hợp cho việc chế biến dầu thành những sản phẩm có giá trị cao. Với những lý do vừa kể, dầu hỏa của Iraq được bán với giá cao trên thị trường quốc tế.
2. Trữ lượng khổng lồ. Dầu hỏa ở Iraq rất dồi dào. Trữ lượng đã kiểm tra được trong năm 2002 đạt danh sách 112.5 tỉ thùng, chiếm khoảng 11% tổng sản lượng toàn thế giới. Từ khi được quốc hữu hóa từ năm 1972 đến nay chỉ có một ít các cuộc thăm dò được tiến hành, vẫn còn rất nhiều khu vực chưa hề xem xét đến. Các chuyên viên dầu hỏa tin rằng Iraq có thể có sản lượng đạt tới hơn 200 tỉ thùng. Nhưng bộ phận điều hành thông tin năng lượng thuộc bộ năng lượng Hoa Kỳ đã dự đoán Iraq có thể có trữ lượng dầu lên đến 400 tỉ thùng. Nếu một cuộc thăm dò mới chứng minh được mức dự đoán ở mức cao này là khả thi, trữ lượng dầu của Iraq có thể được kể vào hàng thứ hai sau Ả Rập Saudi là nước hiện nay có trữ lượng 260 tỉ thùng, nhưng thực tế cho thấy có khả năng trữ lượng dầu của Iraq cao hơn con số cân nhắc cẩn thận này. Chúng ta hãy đọc qua bản đánh giá của bộ năng lượng Hoa Kỳ về việc này như sau:
"Hiện nay, trữ lượng dầu đã được kiểm chứng của Iraq vào khoảng 112 tỉ thùng; thứ hai trên thế giới về sản lượng quốc gia, chỉ sau Saudi Arabia, cùng với trữ lượngdự đoán gần 220 tỉ thùng. Nhưng tiềm năng thực của dầu hỏa Iraq có thể còn cao hơn rất nhiều so với các con số vừa đưa ra bởi vì vùng đất này trải qua nhiều năm chiến tranh và bị cấm vận đã chưa thật sự có những cuộc thăm dò chính thức và chưa có kết luận nào chính xác. Cụ thể, những vùng có mỏ dầu ở sâu trong lòng đất phần lớn thuộc khu vực sa mạc bao la phía tây có thể cung cấp thêm một trữ lượng dầu rất lớn vào kho dầu được biết đến hiện nay. (http://www.eia.doe.gov/emeu/cabs/iraq.html)
Ngày 22 tháng 5 năm 2002, thứ truởng cao cấp của ngành dầu hỏa Iraq đã tham dự cuộc phỏng vấn của Platts, một cơ quan đầu ngành công nghiệp thông tin tài nguyên. Khi thảo luận về các số liệu dự đoán về trữ lượng dầu hỏa của nước này, nhân vật này cho biết "con số mà chúng tôi đã đạt được và con số được mọi người biết đến, cả hai cho thấy chúng tôi có khả năng có thêm được 214 tỉ thùng dầu bên cạnh con số đã được chứng minh (112 tỉ thùng).Chúng tôi tin rằng số liệu này đúng như các con số đã được đề ra và các tiêu chuẩn khoa học đề cập đến. Điều này có nghĩa là trữ lượng dầu của chúng tôi sẽ vượt con số 300 tỉ thùng khi các khu vực có dầu được thăm dò."
Theo Mohammad Al-Gallani, một chuyên viên về dầu hỏa Iraq thuộc công ty liên doanh GeoDesign thuộc Anh, Iraq có 526 khu vực có thể khoan thăm dò dầu, trong số này, đã có 125 khu vực đang được khoan tìm, và 90 khu vực đã chứng minh có khả năng nằm trong vùng túi dầu, nhưng mới chỉ có 30 công trường được phát triển một phần và 12 công trường đã đi vào hoạt động. Về điều này Al-Gallani tuyên bố với hãng thông tấn Canada ngày 14 tháng 12 năm 2002 rằng: "Quý vị có thể tưởng tượng một tiềm năng rất lớn đang mở ra ở trước mặt."

Trong lúc nhu cầu về dầu hỏa ngày càng tăng và trữ lượng dầu ở các nơi khác ngày càng giảm với một tỉ lệ khá nhanh, dầu ở Iraq sẽ từng bước chiếm tỉ lệ cao về sản lượng cung cấp trên tổng sản lượng dầu thế giới. Nếu các mỏ dầu của Iraq đạt được con số dự đoán cao ở mức từ 300 đến 400 tỉ thùng, trong tương lai, vào khoảng giữa thế kỷ 21 này (thậm chí có thể sớm hơn), dầu hỏa Iraq sẽ đạt mức 30% tổng lượng dầu dự trữ trên toàn hành tinh.
3. Giá thành sản xuất rất thấp cho phép nguồn lợi thu về cao hơn nhiều so với việc khai thác dầu ở bất cứ nơi nào khác. Bộ năng lượng Hoa Kỳ cho biết "khai thác dầu ở Iraq có giá thành thấp nhất trên thế giới; điều này đưa lại một khả năng kiếm lời nhiều hơn." Điều này đúng vì dầu hỏa ở Iraq được khai thác từ các mỏ dầu rộng mênh mông cho phép bơm được nhiều dầu hơn từ các giếng tương đối cạn. Mặt khác, dầu ở Iraq phun lên bề mặt nhanh vì áp lực cao của trữ lượng lớn nước và hơi gaz đi kèm ép trên túi dầu.
Hơn một phần ba số lượng dầu dự trữ hiện nay của Iraq nằm ở độ sâu chỉ khoảng 600 mét (khoảng 1,800 bộ) dưới bề mặt quả đất và một số các mỏ dầu của Iraq là những mỏ lớn nhất thế giới. Như mỏ dầu vĩ đại Majnoun chưa được khai thác được biết đến với con số ít nhất 25 tỉ thùng dầu chứa bên dưới. Theo Oil and Gas Journal (tập san chuyên đề dầu hỏa và khí đốt), các công ty dầu khí phương Tây dự kiến họ có thể sản xuất một thùng dầu ở Iraq với giá $1.5 (một đô-la rưỡi) hoặc thấp hơn nữa thậm chí chỉ $1 (1 đô-la), bao gồm cả chi phí thăm dò, phát triển khu khai thác mỏ dầu và cả chi phí sản xuất, đồng thời vẫn có thể thu về 15% tiền lời trên giábán. Chi phí sản xuất dầu ở Iraq theo con số dự kiến này tương đương với việc khai thác dầu ở Saudi Arabia, và thấp hơn nhiều lần so với các nơi khác.
So sánh với chi phí sản xuất dầu ở các nơi khác, chẳng hạn các khu vực khai thác dầu có giá thành tương đối thấp như Malasia và Oman, một thùng dầu tốn khoảng $5. Còn ở Mexico và ở Nga, giá thấp nhất cũng lên đến $6 - $8/thùng, có thể cao hơn tùy theo thỏa thuận giữa các công ty khai thác và chính quyền địa phương về số lượng dầu cho phép khai thác.
Các khu vực sản xuất dầu ngoài khơi trên biển North Sea, với các chi phí tốn kém cho dàn khoan nổi, có thể đưa giá sản xuất một thùng dầu lên từ $12 đến $16. Dầu ở Texas và các nơi khác trên lãnh thổ Hoa Kỳ và Canada, nơi các giếng phải đào sau xuống lòng đất và các túi dầu thường thường nhỏ, chi phí sản xuất rất cao, có thể lên đến $20 mỗi thùng. Khi giá dầu trên thị trường thế giới thấp hơn $20/thùng, các mỏ dầu ở Bắc Mỹ không mang lại nguồn lợi thiết thực nào, do vậy, nhiều giếng dầu đã tạm đóng lại. Trong khi đó, các khu vực có nhiều dầu như ở Iraq hứa hẹn một khả năng khai thác cao với giá thành rất thấp biến lợi nhuận thu về thành một hấp lực mạnh mẽ cho các nhà kinh doanh dầu.
Lợi nhuận tương lai của các công ty khai thác dầu tùy thuộc vào sự điều động nguồn dầu. Trong những năm gần đây, khi các giếng dầu khai thác lâu năm dần cạn, các công ty khai thác phải đối phó với giá "thay thế" càng ngày càng cao. Theo bản báo cáo của John S. Herold, một chuyên gia cố vấn về năng lượng, trong năm 2001, chi phí cho việc tìm kiếm dầu nguồn dầu mới đã tăng lên 60%, đẩy chi phí thay thế lên $5.31 mỗi thùng. Các công ty dầu khổng lồ như Exxon Mobil, BP và Shell cũng đang phải đối đầu với vấn đề khó khăn này. Hãy tưởng tượng một chút về sức quyến rũ của các mỏ dầu của Iraq, chỉ vói một chút đòi hỏi về thăm dò lại hứa hẹn một mối lợi gần như cho không. Đúng như lời Fadel Gheit của công ty Fahnastock & Co. ở New York bình luận trong một bài báo đăng trên tuần báo Dawn: "Iraq sẽ trở thành một khu vực lý tưởng để thay thế nguồn dầu dự trữ cho các công ty dầu hỏa trong tương lai.” (http://www.dawn.com/2002/12/15ebr12.htm).

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một bản tin khác của AP hôm Chủ Nhật cho biết rằng các lãnh đạo của những nền kinh tế lớn nhất thế giới đã đồng ý hôm Chủ Nhật sẽ ngưng tài trợ các nhà máy điện chạy bằng than đá tại những nước nghèo và đưa ra lời cam kết mơ hồ tìm cách ngưng thải khí carbon “vào khoảng giữa thế kỷ” khi họ thu xếp thượng đỉnh tại La Mã trước khi cuộc họp khí hậu lớn hơn của Liên Hiệp Quốc diễn ra tại Glasgow, Ái Nhĩ Lan. Trong khi Thủ Tướng Ý Mario Draghi và Tổng Thống Pháp Emmanuel Macron mô tải thượng đỉnh Nhóm 20 là thành công, kết quả đã làm thất vọng các nhà hoạt động khí hậu, người đứng đầu LHQ và lãnh đạo Anh.
Thỏa thuận nói trên ít hơn mức thuế tối thiểu 21% lúc ban đầu của Tổng Thống Joe Biden. Nhưng Biden đã viết tweet nói ông thỏa mãn. “Ở đây tại G20, các lãnh đạo đại diện 80% Tổng Sản Lượng Toàn Cầu – các đồng minh và những quốc gia cạnh tranh – đã làm rõ sự ủng hộ của họ đối với mức thuế tối tiểu toàn cầu mạnh mẽ,” theo tổng thống viết trên tweet. “Điều này còn hơn một thỏa thuận về thuế -- đó là chính sách ngoại giao đang tái định hình nền kinh tế toàn cầu của chúng ta và mang lại lợi ích cho người dân của chúng ta.”
Trong năm 2018, Trump đã công bố thuế 25% lên hàng thép nhập cảng và 10% thuế lên nhôm làm cho các kỹ nghệ khó khăn, tạo ra sự chỉ trích gay gắt từ các nhà sản xuất các sản phẩm làm bằng thép và nhôm của Mỹ, mà duy trì các mức thuế đó sẽ làm mất việc làm trong các hoạt động của họ và gia tăng giá tiêu thụ. Hôm Thứ Bảy, Sullivan gọi các mức thuế đó là “một trong những việc gây khó chịu cả hai bên lớn nhất trong quan hệ Mỹ-Liên Âu.”
Những người biểu tình tại London, được tham gia bởi nhà hoạt động khí hậu Thụy Điển Greta Thunberg cũng như nhiều nhà vận động trẻ khác từ khắp thế giới tới, là một phần của một ngày toàn cầu hành động trước khi các nhà lãnh đạo tới Glasgow để dự Hội Nghị Biến Đổi Khí Hậu của Liên Hiệp Quốc lần thứ 26, được biết với tên tắt là COP26. Nhiều nhà vận động môi trường gọi cuộc tập họp từ ngày 31 tháng 10 đến ngày 12 tháng 11 là cơ hội tốt nhất sau cùng của thế giới để lật ngược chiều hướng trong trận chiến chống biến đổi khí hậu.
Biden và Macron đã chào đón nhau với những cú bắt tay và vịn vai trước khi họ họp mặt đối mặt lần đầu kể từ vụ thỏa thuận được công bố vào tháng 9, đánh dấu nỗ lực mới nhất của Mỹ để cố gắng xoa dịu sự tổn thương tình cảm của Pháp. Biden đã không chính thức xin lỗi Macron, nhưng thừa nhận Hoa Kỳ không nên làm một đồng minh kỳ cựu ngỡ ngàng. “Tôi nghĩ điều đã xảy ra là – để dùng một thành ngữ tiếng Anh – điều chúng tôi đã làm là vụng về,” theo Biden nói, thêm rằng thỏa thuận tàu ngầm “đã không được làm với nhiều uyển chuyển.” “Tôi cứ đinh ninh rằng Pháp đã được thông báo từ lâu trước đó,” theo Biden nói thêm.
Nói với CNN trong một cuộc phỏng vấn độc quyền hôm Thứ Ba, Tổng Thống Thái Anh Văn cho biết Đài Loan, nằm cách bờ biển đông nam của Hoa Lục chưa tới 200 kilometers, là một “ngọn hải đăng” của dân chủ cần được bảo vệ để giữ niềm tin trên toàn cầu trong những giá trị dân chủ. “Đây là hòn đảo của 23 triệu người đang cố gắng khó nhọc mỗi ngày để tự bảo vệ và bảo vệ nền dân chủ của chúng tôi và bảo đảm rằng người dân của chúng tôi có loại tự do mà họ xứng đáng được,” theo bà nói.
Hôm Thứ Hai các viên chức nói rằng Hoa Kỳ tin rằng Iran đã cung cấp nguồn lực và đã khuyến khích cuộc tấn công, nhưng các máy bay robot đã không được phóng đi từ Iran. Chúng là các máy bay robot của Iran, và Iran có vẻ đã tạo điều kiện cho việc sử dụng chúng, theo các viên chức cho biết với điều kiện ẩn danh vì điều đó chưa được phổ biến. Các viên chức nói rằng họ tin là các cuộc tấn công liên quan tới 5 chiếc máy bay robot chở đầy chất nổ, và chúng đã đánh vào đồn trú al-Tanf của lính Mỹ và một nơi mà các lực lượng chống Syria trú đóng.
Quân đội Sudan đã chiếm quyền hôm Thứ Hai, 25 tháng 10 năm 2021, giải tán chính quyền chuyển tiếp nhiều giờ sau khi quân đội bắt giam thủ tướng, và hàng ngàn người đã tràn ra các con đường để phản đối đảo chánh đe dọa tiến trình hướng tới dân chủ của đất nước, theo Hãng Tin Mỹ AP tường thuật hôm Thứ Hai. Lực lượng an ninh đã nổ súng vào một số người biểu tình, và 3 người biểu tình đã bị giết chết, theo Ủy Ban Bác Sĩ Sudan, cũng nói có 80 người bị thương.
Afghanistan sắp rơi vào sự hỗn loạn ngoại trừ cộng đồng quốc tế hành động nhanh chóng, theo các bộ trưởng Thụy Điển và Pakistan cảnh báo hôm Thứ Bảy, qua bản tin của CNN tường thuật hôm Chủ Nhật, 24 tháng 10 năm 2021. Afghanistan đã rơi vào khủng hoảng sau khi phong trào Taliban Hồi Giáo cứng rắn đánh đuổi chính quyền do Tây Phương hậu thuẫn vào tháng 8 đưa tới việc chấm dứt đột ngột hàng tỉ đô la tài trợ cho nền kinh tế lệ thuộc ngoại viện của nước này.
Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ nói thêm rằng những đại sứ này nên rời khỏi đất nước Thổ nếu họ không hiểu Thổ Nhĩ Kỳ. Nếu Bộ Ngoại Giao nhận lệnh, họ có thể tiến hành mà không cần phải có sự chấp thuận thêm. Bước này có thể dọn đường cho các cuộc trục xuất của họ. Hành động này đến vài ngày sau khi Thổ Nhĩ Kỳ đã triệu tập các đại sứ của Hoa Kỳ, Đức, Pháp, Gia Nã Đại, Đan Mạch, Hòa Lan, Phần Lân, Tân Tây Lan, Na Uy, và Thụy Điển về tuyên bố chung của họ kêu gọi trả tự do cho Kavala vào năm thứ 4 ông bị ngồi tù.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.