Trên một số websites của người Việt trên mạng lưới Internet gần đây, cũng có một số vị viết bài về bà với những ý tưởng khen chê khác nhau. Có một số vị ca ngợi Dương Thu Hương đến tận mây xanh, trong khi một số vị khác lại cho rằng Dương Thu Hương "chưa có đủ sự tiến bộ cần thiết để trở thành một nữ văn sĩ phản kháng trung thực". Trên phương diện nào đó, một số lời khen chê như vậy có phần không hợp lý vì người viết đã thiếu những bằng chứng cụ thể và không đặt bà trong bối cảnh của một nhà văn sinh ra, lớn lên và hiện vẫn còn sống giữa chế độ cộng sản như là một nạn nhân trí thức của cộng sản.
Giống như bất cứ xã hội nào trong lịch sử nhân loại, giai tầng trí thức với kiến thức về tự nhiên, xã hội, với sự hiểu biết về lẽ đúng sai, phải trái, luôn luôn đóng vai trò quan trọng trong việc lèo lái nhân tâm và phải có đủ can đảm bảo vệ lẽ phải, khiến giới cầm quyền bá đạo cùn nhụt nhuệ khí. Có vậy, tầng lớp trí thức mới đóng vai trò của tầng lớp sĩ phu, và công đạo mới được duy trì.
Nhìn vào sự phát triển của văn học và lịch sử Việt Nam trong suốt thời kỳ từ 1954 cho đến 1975 ở Miền Bắc, và từ 1975 trở lại đây ở cả hai miền, nhiều người đã có lý khi cho rằng, trong chế độ cộng sản, tầng lớp sĩ phu ở cả hai miền đều dần dần bị xóa sổ. Thay vào đó là tầng lớp trí thức nô bộc, gọi dạ bảo vâng, sẵn sàng vì miếng đỉnh chung, phụng sự cho chế độ cộng sản.
Ở Miền Bắc suốt từ 54 đến 75, cả một tầng lớp trí thức, khoa bảng hậu duệ của Nho học, hoặc là sản phẩm của nền văn minh Pháp, hoặc cả hai, đều bị tê liệt dưới nọc độc tuyên truyền của cộng sản và sức ép của chế độ tem phiếu, phân phối từ lạng thịt, muỗng đường, giọt sữa, kí gạo trở đi... Hậu quả của sự tê liệt này đã dẫn đến sự cáo chung của tầng lớp sĩ phu Bắc Hà.
Suốt 21 năm dài, cộng sản công khai tung hoành tại Miền Bắc với những chính sách bá đạo như cải cách ruộng đất, theo đuổi cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam, nhưng sự phản kháng của giới trí thức tại Miền Bắc có thể nói gần như số không. Nhiều nhà thơ, nhà văn, luật gia, học giả tên tuổi một thời, quay ra viết thơ, làm văn, sáng tác nhạc... công khai ca ngợi lãnh tụ Hồ Chí Minh và chế độ cộng sản. Một số khác âm thầm sống không kèn không trống trong các trại cải tạo, với tâm trạng thụ động, trùm mền, ngoảnh lưng lại thời thế.
Vì vậy, ta có thể nói, tầng lớp được mệnh danh là "trí thức" hay "sĩ phu" hoặc các vị lãnh đạo tôn giáo tại Miền Bắc cũng phải chịu trách nhiệm phần nào trước những bi kịch của dân tộc, khi họ im lặng hoặc đồng lõa trước những tội ác của cộng sản. Sự im lặng bạc nhược, hoặc thái độ đồng lõa của họ đã dẫn đến những hậu quả vô cùng tai hại, khiến chế độ cộng sản đã độc ác càng thêm tự tung tự tác tung hoành, hàng triệu người dân Việt Nam bị mất phương hướng, hàng trăm vạn thanh niên Việt Nam bị lầm đường, lạc lối, trở thành những con thiêu thân, những vật tế thần, bị cuốn vô guồng máy chiến tranh xâm lăng Miền Nam của cộng sản Hà Nội.
Sau khi cộng sản cưỡng chiếm Miền Nam, một số trí thức Miền Nam lại tiếp tục đi vô vết xe đổ tương tự. Có nhà văn, nhà báo, trước kia nằm vùng, khi cộng sản vô, họ công khai xuất hiện chạy theo cộng sản, mượn danh cộng sản làm mưa làm gió, trả ân trả oán. Nhiều người trước kia căm ghét cộng sản thì tìm đường vượt biên, hoặc trùm mền xa lánh trường văn trận bút, hoặc tìm vô cửa thiền, vui thú điền viên, hoặc quay ra cộng tác với cộng sản, viết bài tô son, trát phấn cho chế độ. Nhiều nhà văn, nhà báo tên tuổi tại Miền Nam trước đây, vượt biên thành công, sau những năm đầu dấn thân, theo đuổi lý tưởng với đầy hùng tâm tráng khí, thề non hẹn biển với vong linh những người đã nằm xuống, dần dần cũng cùn nhụt nhuệ khí, rời bỏ lý tưởng, quay sang chơi kiểng, viết văn, làm thơ, ngắm trăng, hưởng nhàn, hoặc trốn tránh lý tưởng bằng cách lao vào những việc có tính thiện nguyện xã hội tại những quốc gia sở tại để tìm sự an ủi.
Trong bối cảnh đó, tiếng nói can đảm của Nguyễn Chí Thiện, của Dương Thu Hương quả thực vô cùng hiếm hoi và đáng qúy. Có điều theo dõi những bài phỏng vấn Dương Thu Hương được đăng rải rác trên các báo Việt ngữ hải ngoại, nhiều người không đồng ý khi Dương Thu Hương tự cho mình, là người có nhãn quan cấp tiến và thái độ phản kháng chế độ CS ngay sau khi CS chiếm được Miền Nam, và bà được chứng kiến những tòa nhà chọc trời, những khung cảnh sầm uất tại Sàigòn.
Bằng chứng là ít nhất, cho đến năm 1983, nghĩa là 8 năm sau khi cộng sản chiếm được Miền Nam, Dương Thu Hương vẫn là một nhà văn chuyên sáng tác theo nhu cầu tuyên truyền của đảng cộng sản. Trong những truyện ngắn của bà được giới cai văn nghệ tại Hà Nội đánh giá có giá trị tuyên truyền cao là truyện "Loài Hoa Biến Sắc" được sáng tác vào tháng 8 năm 1975, và "Chuyện Tình Kể Lúc Rạng Đông" sáng tác vào năm 1983.
Truyện "Loài Hoa Biến Sắc" được trích đăng trong số báo này sẽ cho qúy độc giả thấy được rõ ràng hơn chân diện của nhà văn Dương Thu Hương ở thời điểm 1975, để rồi qua đó, chúng ta có được những nhận xét, những đánh giá về Dương Thu Hương công bằng và hợp tình, hợp lý hơn.
Truyện "Loài Hoa Biến Sắc" được viết dưới dạng tự thuật, trong đó vai chính là Sửu, một nữ thanh niên xung phong, sau trở thành phóng viên cho một tờ báo của cộng sản. Trong bối cảnh mới chiếm được Miền Nam, Sửu từ vùng rừng sâu núi thẳm, đặt chân đến Sàigòn với bề ngoài là niềm tự hào của kẻ chiến thắng nhưng trong thâm tâm lại mang nặng mặc cảm tự ti của một người con gái xấu xí, có nước da xám xanh vì sốt rét, từ một thế giới lạc hậu, mọi rợ và quê mùa, bước vô một thành phố sang trọng, trong đó có những người con gái xinh đẹp đài các, ăn vận thanh lịch, văn minh, nước hoa thơm phức...
Để có thể hội nhập vào thế giới mới, đầy văn minh đó, Sửu đã cố gắng đua đòi một cách tuyệt vọng bằng cách tìm đến son phấn, đến sách vở hướng dẫn nghệ thuật trang điểm nhưng bất thành. Để giúp Sửu giải quyết mâu thuẫn nội tại và mặc cảm tự ti cực kỳ nguy hiểm này, một mặc cảm lan truyền rộng khắp trong hầu hết nữ cán bộ cộng sản trong đó có tác giả vào thời điểm sau 1975, Dương Thu Hương, đứng trên quan điểm lập trường của đảng cộng sản, đã cho một người con gái Sàigòn xuất hiện với bề ngoài thanh lịch, ăn mặc đài các, trang sức lộng lẫy, nhưng có đủ những tật xấu như tham ăn, vô duyên, uống rượu như uống nước lã...
Qua những diễn biến đầy vẻ ngẫu nhiên của câu truyện và sự quan sát tinh tế (một cách phi lý, thiếu thống nhất về khả năng thẩm mỹ) của nhân vật Sửu, Dương Thu Hương đã khôn ngoan đưa người con gái Sàigòn vào một ngõ cụt để rồi cuối cùng, Dương Thu Hương lạnh lùng để người con gái Sàigòn bị lột trần, hiện nguyên hình là một cô gái bao trong vòng tay một người đàn ông Sàigòn ăn chơi trác táng, nói năng khinh bạc, coi rẻ nhân phẩm người phụ nữ.
Sau khi chứng kiến những hình ảnh phũ phàng khiến người con gái Sàigòn đài các bị lột trần, Dương Thu Hương cho Sửu tìm lại được sự thăng bằng trong cuộc sống, tìm được ý nghĩa và giá trị của chính mình, và gạt bỏ mọi vẻ đẹp có tính phù phiếm, hình thức. Gần cuối câu truyện, Dương Thu Hương cho Sửu nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy thành phố Sàigòn chất ngất ánh đèn, rồi tự cảm: "...có một cái gì tự tan vỡ ra nơi đó. Một lớp giấy trên chiếc rọ làm hình nhân bị xé rách. Một lớp váng dầu ngũ sắc bị khuấy tan trên mặt nước tù".
Qua câu chuyện, Dương Thu Hương đã tạo cho nhân vật Sửu tự khám phá ra vẻ đẹp "nguyên sinh" của chính mình và nhận ra, đằng sau vẻ đài các, xinh đẹp và bặt thiệp của người con gái Sàigòn là những điều xấu xa, đê tiện, giống như nước ao tù được che giấu dưới lớp váng dầu ngũ sắc.
Nhìn vào quá trình chuyển biến tư tưởng của Dương Thu Hương qua những tác phẩm do bà sáng tác trong thời gian mấy chục năm qua, ta sẽ thấy, vào thời điểm sáng tác truyện ngắn "Loài Hoa Biến Sắc", những mặc cảm tự ti trong tâm tư của Sửu là mặc cảm chung của tất cả những người cộng sản, trong đó có Dương Thu Hương, khi đặt chân đến các thành phố Miền Nam hoa lệ, tiếp xúc với một thế giới văn minh và tự do. Theo quy luật của lịch sử, trong mối tương quan khác biệt về trình độ văn minh đó, kẻ bị đồng hóa, không phải là kẻ bại trận, mà lại là kẻ chiến thắng - những kẻ tuy chiến thắng về quân sự nhưng lại mọi rợ, thua thiệt về trình độ văn minh. Đây là một quy luật không phải chỉ xảy ra ở Việt Nam mà đã xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới, xuyên suốt lịch sử của nhân loại. Điển hình như người Mông Cổ, người Mãn Thanh tuy chiếm được Trung Hoa nhưng lại bị văn minh Hán, Đường của Trung Nguyên đồng hóa.
Vào thời điểm sau 1975, truyện ngắn "Loài Hoa Biến Sắc" của Dương Thu Hương là một thế gỡ, một chỗ bấu víu, một chiêu thức đi tìm sự an ủi, nhằm đẩy lui những mặc cảm tự ti trong tâm hồn những nữ cán bộ cộng sản khi họ được tiếp xúc với thế giới văn minh của Miền Nam. Tuy nhiên, cùng với thời gian và năm tháng, chính bản thân Dương Thu Hương và hàng triệu nữ cán bộ cộng sản, đều nhận ra, sự tạm bợ, hời hợt, tính ngụy biện và lối tuyên truyền đơn điệu rẻ tiền của truyện ngắn "Loài Hoa Biến Sắc".
Với người đọc, khi nhận ra sự hời hợt, tính ngụy biện và lối tuyên truyền đơn điệu, rẻ tiền của một câu truyện, phản ứng của họ thường đơn giản: một tiếng thở dài, một lời chửi thề, một cái vung tay ném cuốn truyện vào một xó xỉnh nào đó dưới gầm giường, rồi tắt đèn đi ngủ. Vậy là xong!
Nhưng với tác giả, một khi nhận ra sự hời hợt, tính ngụy biện và lối tuyên truyền đơn điệu, rẻ tiền của câu truyện do mình sáng tác trong quá khứ, thì đó là cả một nỗi đau, một sự ân hận của một thân phận trí thức khi nhận ra mình đã lầm đường lạc lối. Thì ra, mồ hôi, nước mắt, tâm não của tác giả đã bị phung phí vào một trò chơi trí tuệ mà giá trị không khác gì một cuộc múa rối, một kiếp thiêu thân bị lóa mắt trước ánh đèn ảo tưởng. Khi nhận ra điều đó, họ thấy họ bị phản bội, và đau đớn hơn, chính họ cũng đã say sưa lao vào một trò chơi phản bội độc giả bằng sự lừa lọc trí thức. Đây chính là nỗi đau của Dương Thu Hương và cũng là nỗi đau chung của giới văn nghệ sĩ trí thức cộng sản hoặc thân cộng ở hai miền Nam Bắc trong suốt thời gian nửa thế kỷ qua.
Phải chăng, bắt nguồn từ nỗi đau của một người trí thức bị lừa, của một cô gái bị đảng cướp mất những năm tháng tươi đẹp thơ mộng nhất, nên ngày nay, những lời phản kháng của Dương Thu Hương không còn thuần túy là tiếng nói chống đối của một nhà văn mà đã trở thành tiếng gào, tiếng thét... của một người đàn bà khi biết mình bị lừa thì tuổi đã xế chiều"
Hữu Nguyên