Hôm nay,  

Tài Liệu Về ‘vụ Gián Điệp Quan Trọng Trương Thị Lý’

6/2/200400:00:00(View: 9033)
Kỷ Niệm Ngày Đức TGM Nguyễn Kim Điền Bị Đầu Độc (08-06-1988 / 08-06-2004):
LTS: Trong tuần lễ này, vừa đúng 16 năm ngày Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền bị CSVN đầu độc, Giáo Sư Nguyễn Lý Tưởng công bố một số tài liệu về hồ sơ mà nhà nước Hà Nội gọi là “Vụ Gián Điệp Quan Trọng Trương Thị Lý,” trong đó nêu lên các thủ đoạn công an đã truy bức ra sao. Bài viết của Giáo Sư như sau.
Tháng 7 năm 1985, Đức TGM Philippe Nguyễn Kim Điền đã gởi thư trình bày thực trạng Giáo Phận Huế cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ II. Bức thư viết bằng tiếng La Tinh và Ngài đã nhờ hai Nữ Tu Trương Thị Nông và Trương Thị Lý (Bề Trên Dòng Mến Thánh Giá, Huế) mang thư vào Sài Gòn, nhờ Tổng Lãnh Sự Pháp chuyển qua Roma.
Công An đã theo dõi và đã bắt hai Nữ Tu nói trên; đồng thời chúng cũng bắt Linh Mục Trần Văn Quý là Bí Thư của Đức TGM Huế, tra khảo bắt buộc phải khai rõ về điều mà chúng gọi là “Vụ Gián Điệp Quan Trọng Trương Thị Lý”ạ. Trước sự đàn áp, bắt bớ các người thừa hành của Tòa Giám Mục, ngày 3 tháng 7 năm 1986, Đức TGM Philippe Nguyễn Kim Điền đã gởi một thư cho Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Thừa Thiên, Công An tỉnh và cho Thủ Tướng Chính Phủ CSVN, Chủ Tịch Quốc Hội CSVN, đồng thời cũng thông báo cho Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, các Tu Sĩ trong Giáo Phận Huế và Tòa Thánh Roma.
Nội dung bức thư như sau:

Thơ gửi:
- Ủy Ban Nhân Dân, Công An tỉnh Thừa Thiên
- Thủ Tướng Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa
- Chủ Tịch Quốc Hội VNXHCN
Tôi, Nguyễn Kim Điền, Tổng Giám Mục trong bản văn này mang chữ ký của tôi, tôi xác nhận hôm nay những điều sau đây:

1. Những thơ từ và những bản văn các nhà chức trách bắt giữ từ túi dì phước Trương Thị Nông đều nằm trong các hoạt động của Giáo Phận Huế. Nội dung những tài liệu đó hoàn toàn thuộc phạm vi tôn giáo. Những tài liệu có tính cách thông tin, khách quan và hoàn toàn hợp với sự thực. Đó là thư từ trao đổi giữa những người bạn, không chỉ trích ai mà cũng không chống đối ai.

2. Tôi đòi cho chính tôi tất cả trách nhiệm trong việc này. Bí thơ của tôi là cha Trần Văn Quý, hai dì phước Trương Thị Lý và Trương Thị Nông chỉ là những người chấp hành: dì phước chỉ là người mang thơ mà chính dì không biết gì về nội dung.

3. Tôi biết rõ điều 74 hình luật. Điều ngang với luật hình năm 1986 thì tôi không biết. Tôi cũng chỉ biết Hiến Pháp Cộng Hòa Xã Hội VN năm 1980 những khoản 71, 67, 69 và 70 liên hệ tới quyền công dân.

4. Tôi biết Cộng Hòa Xã Hội VN là thành phần tổ chức Liên Hiệp Quốc, mà bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền xác nhận trong điều 19:
“Tất cả mọi cá nhân có quyền tự do phát biểu và cho ý kiến, điều đó gồm quyền không phải lo sợ vì những ý kiến mình nói ra và quyền tìm, nhận và phổ biến không kể ranh giới, những tin tức, những ý nghĩ, bằng bất cứ phương tiện phát biểu nào...”

5. Tôi là Tổng Giám Mục Giáo Hội Công Giáo, một Tôn Giáo được chấp nhận ở VN, và tôi biết theo sắc lệnh của Chủ Tịch Hồ Chí Minh và theo những bản văn lập pháp được áp dụng hiện nay, những mối liên lạc giữa Giáo Hội VN và Tòa Thánh Roma là việc nội bộ (Sắc Lệnh số 234, ngày 14/6/1955, điều 13).
Là con của Giáo Hội Công Giáo, nên tôi có quyền gởi về Giáo Hội Mẹ tôi những tin tức của tôi cùng những tin tức của anh chị em gần xa của tôi.
Là Tổng Giám Mục của Giáo Hội nói trên, tôi có nghĩa vụ thông tin cho Cha tôi là Đức Thánh Cha, về tình trạng tôn giáo thuộc Giáo Phận và Giáo Tỉnh tôi có trách nhiệm.

6. Tôi cũng biết điều này: Không có luật nào cấm tôi biên thơ và xin một số người tôi chọn để mang thơ đó đi gởi mà không cần họ phải biết nội dung những thơ từ đó.
Và đây là lời kết cấu của tôi:
Khi viết thơ và thông tin, tôi chỉ dùng nhân quyền tôi có thôi. Khi liên lạc với Ðức Giáo Hoàng và thông tin cho Ngài những tin tức trong phạm vi nghĩa vụ của tôi, tôi chỉ muốn làm tròn bổn phận tôn giáo của một Giám Mục.
Vậy nếu việc thông tin này có hậu quả dẫn tôi tới tình trạng lỗi lầm theo con mắt của nhà chức trách và tòa án nước Cộng Hòa Xã Hội VN, xứ sở của tôi, thì tôi xin kể như người bị bách hại vì lý do tôn giáo, một nạn nhân nhân danh nhân quyền. Ðó là một vinh dự lớn lao cho tôi được là mục tiêu cho mọi đường lối đối phó mà tôi sẽ phải chịu vì lý do tôn giáo và nhân quyền.


Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền
(Ngày 3 tháng 7 năm 1986)
Tiểu sử Đức TGM Philippe Nguyễn Kim Điền (1921- 1988)

Đức TGM Philippe Nguyễn Kim Điền, sinh ngày 13 tháng 3 năm 1921 tại Long Duệ, Giáo Phận Vĩnh Long. Chịu chức Linh Mục ngày 21 tháng 5 năm 1947, làm Giáo Sư rồi Giám Đốc Chủng Viện.
Năm 1955, gia nhập Dòng Tiểu Đệ của Thánh Charles de Foucault, sinh hoạt mục vụ với người nghèo trong các xóm lao động, đạp xích lô để sống tự túc. Ngài cũng đã qua Bắc Phi, sống tập thể trong sa mạc Sahara với các tu sĩ Dòng Tiểu Đệ theo truyền thống của Dòng này. Năm 1957 trở về Việt Nam, Ngài đã từng sống ở Sài Gòn, Lâm Đồng, Cần Thơ.
Ngày 8 tháng 12 năm 1960, Ngài được Tòa Thánh Vatican chính thức bổ nhiệm làm Giám Mục Giáo Phận Cần Thơ (lúc 39 tuổi), lễ tấn phong được tổ chức tại Sài Gòn ngày 22 tháng 01 năm 1961.
Ngày 30 tháng 9 năm 1964, Ngài được Tòa Thánh cử làm Giám Quản Tổng Giáo Phận Huế thay thế Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục đi họp ở Roma và không trở về sau biến cố 01 tháng 11 năm 1963. Ngày 11 tháng 3 năm 1968, Ngài được chính thức làm Tổng Giám Mục Huế.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Ngài tuyệt đối trung thành với Giáo Hội Roma, lên tiếng phản đối chính sách tiêu diệt tôn giáo nhất là đối với Công Giáo của CSVN. Năm 1977, trong cuộc họp của Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc VN tổ chức tại Huế, Ngài đã lên tiếng đòi “Tự Do Tôn Giáo tại Việt Nam”. Ngài cấm các Linh Mục và Tu Sĩ Nam Nữ không được tham gia Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước là một tổ chức tay sai của CSVN nhằm lũng đoạn hàng ngũ Giáo Hội. Năm 1980, trong dịp tiếp kiến các Giám Mục Việt Nam tại Roma, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ II đã ca tụng Đức TGM Philippe Nguyễn Kim Điền là “một người anh hùng”. Ngày 19 tháng 10 năm 1983, Ngài gởi thư cho Linh Mục Nguyễn Thế Vịnh (34 Ngô Quyền, Hà Nội) là “Chủ Tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo Yêu Nước” nói lên lập trường “hiệp nhất” với Giáo Hội Hoàn Vũ và cảnh giác trước âm mưu lập Giáo Hội Việt Nam “ly khai” với Vatican. Ngày 11 tháng 8 năm 1984, Ngài gởi thư cho ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Quốc Hội CSVN phản đối việc Công An tỉnh Bình Trị Thiên đối xử với Linh Mục Nguyễn Văn Lý là vi phạm điều 10 khoản 7 của Hiến Pháp CSVN.
Kể từ ngày 5 tháng 4 năm 1984, trong suốt 120 ngày, Ngài bị Công An tỉnh Bình Trị Thiên mời đi “làm việc” (thẩm vấn)... và ra lệnh quản chế, cấm không được đi ra khỏi chu vi TP Huế. Trước tình thế đó, ngày 19 tháng 10 năm 1985, Ngài đã viết thư gởi cho giáo dân: “Mai ngày khi tôi bị bắt, tôi xin anh chị em đừng tin một điều tuyên bố nào, dù lời tuyên bố đó mang chữ ký mà người ta gán cho tôi”.
Ngày 8 tháng 11 năm 1985, cảm thấy cái chết có thể đến với Ngài bất cứ lúc nào nên Ngài đã viết di chúc ngắn để lại cho các Linh Mục “khuyên các cha hãy trung thành với Hội Thánh và đoàn kết với nhau, sống trọn vẹn bổn phận của chủ chăn nhân hiền”...
Ngày 25 tháng 3 năm 1988, Ngài viết một bức thư gởi cho ông Nguyễn Văn Linh, sau khi ông được bầu làm Tổng Bí Thư đảng CSVN và tuyên bố chính sách “đổi mới”... Nội dung bức thư đòi xóa bỏ lệnh quản chế đối với Ngài, được phục hồi quyền công dân, được tự do đi lại để thi hành nhiệm vụ Tổng Giám Mục đối với giáo dân Huế và thăm viếng các Giáo Phận khác thuộc Tổng Giáo Phận Huế.
Cuối tháng 5 năm 1988, Ngài bị đau nặng phải đưa vào bệnh viện Nguyễn Trãi, Chợ Lớn. Tòa Thánh Vatican can thiệp xin cho Ngài đi Roma chữa bệnh nên sau đó, Ngài xin chuyển qua bệnh viện Chợ Rẫy để được xét nghiệm, làm thủ tục xuất ngoại. Lợi dụng cơ hội này, CSVN đã đầu độc Ngài tại bệnh viện.
Ngài qua đời lúc 13 giờ 30 ngày 8 tháng năm 1988 tại bệnh viện Chợ Rẫy (Sài Gòn), hưởng thọ 67 tuổi. Thi hài của Ngài được đưa về an táng tại nhà thờ Chánh Tòa Phủ Cam, Huế.
(Trích Thuyền Ai Đợi Bến Văn Lâu của Nguyễn Lý-Tưởng, xuất bản năm 2001, tr.331-335)

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Nhà thơ Đỗ Nguyên Mai vừa ấn hành tập thơ cho ngày 30 tháng 4 năm 2019: Battlefield Blooming. Tập thơ ấn hành cho ngày tưởng niệm 44 năm Miền Nam sụp đổ dày 60 trang, viết bằng Anh ngữ, vì bản thân nhà thơ Đỗ Nguyên Mai thuộc thế hệ trẻ tại Hoa Kỳ, trước giờ chỉ làm thơ tiếng Anh.
Tối Thứ Bảy 27-4-2019 nhiều đồng hương đa số là thuyền nhân năm xưa đã đến dự buổi văn nghệ chủ đề Đêm Thuyền Nhân do Câu Lạc Bộ Viện Việt Học tổ chức.
Tôi rất vinh dự được đại diện cho một cộng đồng người Việt lớn nhất ở ngoài nước Việt Nam. Hôm nay - Ngày 30 Tháng Tư, tôi xin được cùng quý vị dành một phút mặc niệm
sau Tháng Tư, 1975 cho đến nay – tháng Tư, 2019 , có lẽ chỉ có một vị anh hùng sáng chói là anh hùng Lý Tống của Không lực VNCH
Thành tựu trong giáo dục là một trong những thành tựu quan trọng nhất và rõ rệt nhất, đồng thời cũng là một nét đẹp đáng trân quý trong sinh hoạt ở Miền Nam thời trước năm 1975 ít ai có thể phủ nhận được. Có nhiều nguyên nhân
. Gia đình nào cũng tan nát phân tán khắp nơi. Đúng là: "Nước mất nhà tan". Cũng như còn nổi nhục nào cái nhục này, khi biết được nhan nhản trên báo chí Trung Cộng đăng lời rao bán đàn bà, con gái Việt Nam
Sau một năm trong các trại giam trong Nam, mười hai năm biệt xứ lưu đầy ngoài Bắc, cộng thêm bốn năm nữa lao động khổ sai trong Nam, hôm nay ngày 29-4-1992, chúng tôi 16 tù chính trị cuối cùng thuộc chế độ VNCH trong trại Z-30D đã được thả ra sau mưới bẩy năm – còn bốn ông tướng thì một tuần sau ngày 5-5-1992, cộng sản mới thả ra: Lê Minh Đảo, Lê Văn Thân, Đỗ Kế Giai và Trần Bá Di
Thành phố Westminster đã cho treo cờ rũ tại Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ Việt Mỹ từ ngày 23 và cho đến hết ngày 30, đồng thời thành phố sẽ có một nghi thức lễ tưởng niệm vào đúng 10 giờ sáng thứ 3 ngày 30 tháng 4 tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ. .. lần đầu tiên chính quyền một thành phố đứng ra tổ chức Lễ Tưởng Niệm 30 tháng 4.
Ba cuốn sách gần đây về chiến tranh Việt Nam đã làm sáng tỏ về một lĩnh vực thường được đề cập tới, cho thấy rằng sự thất bại của Hoa Kỳ cách đây nửa thế kỷ vẫn còn nhiều điều để dạy cho chúng ta. Nhưng các chuyên gia về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đã cho thấy là họ không có khả năng quan tâm đến những bài học đúng đắn
những người ra đời sau 1975 là đa số. Cũng dễ hiểu là trong cuộc sống hàng ngày, đa số này không lưu tâm tới một chuyện đã xảy ra trước khi có mặt họ trên cõi đời này, cho dù những gì đang xảy ra luôn luôn có liên quan nhiều ít đến những gì đã xảy ra trong dĩ vãng. Vậy họ lưu tâm đến những gì?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.