Hôm nay,  

Hà Nội Tận Lực Cổ Võ Hiệp Ước Thương Mại Việt-mỹ

7/11/199900:00:00(View: 6625)
Điều gì sẽ xẩy ra sau khi Việt Nam nhận được Qui chế tối huệ quốc (MFN) hay Chế độ thuế quan phổ cập (GSP)" Với câu hỏi trên, báo chí trong nước tuần qua đã viết bài cổ võ mạnh mẽ cho triển vọng ký kết thương ước giữa CSVN và Hoa Kỳ. Sau đây là bài viết cổ võ đặc biệt này.
Xuất khẩu hiện nay của Việt Nam sang Mỹ, châu Âu và Nhật Bản là bằng chứng giải đáp câu hỏi này. Trừ mặt hàng quần áo, dệt kim, các mặt hàng này đều có mức thuế thấp, ví dụ như trường hợp giày dép, mức chênh lệch giữa thuế MFN và thuế phi MFN là tương đối nhỏ, việc gia tăng hơn nữa về xuất khẩu của Việt Nam sẽ phụ thuộc chủ yếu vào năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của Việt Nam đối với những mặt hàng này.
Các mức thuế đối với nhóm hàng cà phê, gia vị, chè (trà) và nhóm hàng cá và hải sản trong đó chủ yếu cà phê và tôm đông lạnh có mức thuế bằng. Như vậy, tình trạng Qui chế tối huệ quốc không có tác động nào đối với những sản phẩm này và việc nhập khẩu của Mỹ nên duy trì ở mức độ cao như nhập khẩu đối với những mặt hàng này ở Nhật Bản và châu Âu (Nhật Bản nhập cá và hải sản của Việt Nam đạt tới gần 370 triệu USD năm 1998, châu Âu nhập khẩu cà phê của Việt Nam đạt kim ngạch 269 triệu USD năm 1998).
Kim ngạch XK của Việt Nam sang thị trường Mỹ đối với giày dép tăng vọt một cách đáng kể. Nguyên nhân chủ yếu là do sự khác biệt giữa mức thuế MFN và phi MFN đối với mặt hàng này (35% và 20%). Các mức chênh lệch thuế tương đối nhỏ cho phép Việt Nam có thể cạnh tranh được với các nước được hưởng Tối huệ quốc MFN. Ngoài ra, hàm lượng lao động cao đã tạo cho sản phẩm giày dép của VN có một lợi thế cạnh tranh. Khả năng cạnh tranh đối với một số ngành hàng rất lớn. Ví dụ, năm 1997, giày dép XK sang thị trường châu Âu đạt mức 522,1 triệu USD so với con số 97,644 triệu USD năm 1997 XK sang Mỹ cho thấy khả năng XK giày dép của Việt Nam sang thị trường này còn rất nhiều.
Mức XK dầu thô sang thị trường Mỹ mặc dù cao hơn so với XK sang châu Âu nhưng chỉ bằng khoảng 1/10 so với kim ngạch XK sang Nhật Bản. Chi phí vận chuyển cũng là một yếu tố nhưng do Nhật là đối tác đến với thị trường Việt Nam trước nên đây có thể là một lý do về mặt nguyên tắc. Vì vậy, kim ngạch NK dầu thô của Mỹ từ Việt Nam mà tăng lên được dự kiến chính là khi công ty dầu lửa của Mỹ bắt đầu có vị trí lớn hơn ở Việt Nam.
Kim ngạch NK hàng dệt kim của Mỹ tăng lên một cách chậm chạp chủ yếu là do mức thuế phi MFN đối với hàng dệt kim cao hơn so với mức thuế MFN (khoảng 10 lần). Việt Nam đã đủ năng lực sản xuất hàng dệt kim, được thể hiện qua kim ngạch XK sang châu Âu năm 1998 là 352 triệu USD và sang Nhật 402 triệu USD (trong đó XK sang EU bị giám sát bằng hạn ngạch nếu không còn có khả năng cao hơn).
Việt Nam còn có tiềm năng trong các ngành sản xuất khác, như mặt hàng quần áo dệt len, túi thể thao, ba lô, đồ gốm, đồ gỗ,... Đây là những mặt hàng mà mức chênh lệch giữa cột MFN và phi MFN là khá lớn. Trong khi đó, kim ngạch XK mặt hàng này sang châu Âu và Nhật Bản là khá cao và có chiều hướng tăng nhanh. Như vậy, cho thấy khả năng tăng trưởng đối với những mặt hàng này sẽ là rất nhanh nếu Việt Nam được hưởng MFN của Mỹ.
XK hiện này của Việt Nam sang thị trường Mỹ, châu Âu và Nhật Bản đã đưa ra nhiều câu trả lời cần thiết cho việc dự tính các triển vọng buôn bán của Việt Nam đối với Mỹ. Một câu hỏi đặt ra là sẽ phải mất bao lâu thì kim ngạch NK của Mỹ từ VN sẽ đạt đến con số tỷ USD như các thị trường châu Âu và Nhật Bản.
Mỹ là một thị trường tiêu thụ rộng lớn đồng thời cũng là một nguồn cung cấp những thiết bị công nghệ hiện đại và hàng tiêu dùng cao cấp trên thế giới, trong khi Việt Nam có nhiều mặt hàng hấp dẫn đối với thị trường khổng lồ này và có nhu cầu khá lớn về các sản phẩm của Mỹ. Tuy nhiên, với những bước tiến vượt bậc và những thành công bước đầu nêu trên, quan hệ thương mại giữa hai nước vẫn còn chưa tương xứng với tiềm năng dồi dào của nó.
Ví dụ: nhóm hàng quần áo may mặc nhập vào Mỹ hàng năm đạt trị giá hơn 45 tỷ USD nhưng Việt Nam chỉ xuất được sang thị trường này khoảng 26 triệu USD năm 1998 - một tỷ lệ rất thấp. Năm 1998, Mỹ mua của Việt Nam khoảng 108,2 triệu USD nhóm hàng cà phê, chè, gia vị trong khi giá trị nhập nhóm hàng này ở Mỹ là 3,726 tỷ USD. Về nhóm hải sản nhập 7,64 tỷ USD, Việt Nam chiếm 0,06%.
Những khó khăn lớn để hàng hoá Việt Nam thâm nhập vào thị trường Mỹ là hai nước chưa có hiệp định thương mại song phương và VN chưa được hưởng Qui chế tối huệ quốc của Mỹ. Trên thị trường Mỹ, hàng hoá của Việt Nam kém sức cạnh tranh do biểu thuế NK của Mỹ phân biệt rõ thuế suất tối huệ quốc và thuế suất đánh vào những nước không được hưởng Qui chế tối huệ quốc. Thuế suất không có MFN thường cao hơn rất nhiều so với thuế suất MFN, nhất là đối với nhiều mặt hàng Việt Nam có khả năng xuất khẩu như hàng may mặc, dầu thô, nông hải sản chế biến. Thêm vào đó, Việt Nam còn có nhiều hạn chế về mặt chất lượng, kỹ thuật đối với một thị trường đòi hỏi cao và nghiêm ngặt như ở Mỹ.

Hàng Việt Nam xuất sang Mỹ chủ yếu là lương thực thực phẩm và hàng tiêu dùng mà tiêu chuẩn của Mỹ đối với các mặt hàng này rất cao và đòi hỏi phải đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe của chất lượng. Chất lượng sản phẩm được coi trọng hàng đầu và là chìa khoá mở cửa vào thị trường Mỹ.
Khó khăn nữa là phải đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu hệ thống luật của Mỹ. Hệ thống luật của Mỹ rất phức tạp, mỗi bang lại có thể lệ riêng nên không thể chủ quan áp dụng từ thị trường này sang thị trường kia. Hiện nay việc thiếu thông tin về Mỹ cũng là một chướng ngại cho các nhà kinh doanh Việt Nam.
Nhìn chung, quan hệ thương mại Việt Nam Mỹ sẽ tiến triển một cách thuận lợi. Trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá hiện nay, không một nền kinh tế nào đứng ngoài tiến trình tự do hoá về thương mại. Về mặt thực tiễn, không phải chờ đến lúc tiến trình bình thường hoá quan hệ kinh tế giữa hai nước được thực hiện đầy đủ, các quan hệ thương mại Việt Nam và Mỹ đã phát triển một cách đáng khích lệ. Thương mại hai chiều đạt mức gần 1 tỷ USD. Mặc dù trở lại thị trường Việt Nam chưa lâu, nhiều công ty tên tuổi của Mỹ đã trở nên quen thuộc ở thị trường Việt Nam. Những thành quả đó sẽ là nhân tố quan trọng hối thúc Chính phủ Mỹ nhanh chóng thông qua các hiệp định (cụ thể là Hiệp định thương mại Việt - Mỹ) để bình thường hoá hoàn toàn quan hệ với Việt Nam.
Việc bình thường hoá các quan hệ chính trị, ngoại giao Việt-Mỹ đã tạo ra những cơ hội tốt cho cả hai bên để có thể tạo ra những chuyển biến tốt trong việc thúc đẩy tiến trình bình thường hoá về kinh tế nói chung và thương mại nói riêng. Do đó đi cùng với các quan hệ trao đổi đại sứ, các chuyến viếng thăm cấp cao, Mỹ đã bắt đầu cho phép Cơ quan phát triển thương mại Mỹ (TDA) chính thức mở chương trình hỗ trợ tại Việt Nam; các bên đang tích cực đàm phán hiệp định về thương mại. Đây là những chuyển động tất yếu và là những tín hiệu quan trọng cho quan hệ thương mại lâu dài giữa hai nước.
Những phân tích này đưa đến một hy vọng lớn mà cả hai bên cùng mong đợi, đó là việc ký kết Hiệp định thương mại và trao cho nhau Qui chế tối huệ quốc (MFN). Chắc chắn, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ sẽ được ký kết trong một thời gian không xa.
Triển vọng về quan hệ thương mại hai nước sau khi ký kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ là rất lớn. Bởi lẽ do không được thụ hưởng MFN, quan hệ thương mại Việt- Mỹ chưa phát triển đúng tiềm năng và nhu cầu của cả hai nước. Chẳng hạn, buôn bán giữa hai nước còn ở mức khiêm tốn. Về phía Việt Nam, nếu được hưởng tối huệ quốc, Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may, một ngành mà Việt Nam có ưu thế lớn lên đến hàng trăm triệu USD thay vì chỉ khoảng 30 triệu USD như hiện nay. Việt Nam hiện nay mới chỉ xuất khẩu sang Mỹ những mặt hàng được miễn thuế hoặc thuế suất thấp như hải sản, gia vị, cà phê chưa chế biến. Còn những mặt hàng như gạo, dệt may, đồ gỗ, đồ sứ... hầu như tăng không đáng kể vì chênh lệch giữa thuế MFN và thuế phi MFN là quá cao. Chẳng hạn, mức thuế phi MFN cho quần áo thể thao là 90% trong khi mức thuế MFN chỉ là 8,5%. Đây có thể coi là một khó khăn lớn nhất cho việc đẩy mạnh buôn bán giữa hai nước và điều đó chỉ có thể khắc phục được chừng nào Mỹ cho Việt Nam hưởng Qui chế tối huệ quốc.
Một số qui chế về cải cách thương mại và môi trường đầu tư của Việt Nam dựa trên qui chế của WTO do phía Mỹ đòi hỏi để tiến tới ký kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ cũng là vấn đề rất cần thiết mà hiện nay Việt Nam phải đáp ứng.
Vấn đề này sẽ được giải quyết vì Việt Nam đã là thành viên của AFTA, APEC và đang chuẩn bị các điều kiện gia nhập WTO. Do đó, xét về lâu dài, các trở ngại trong quan hệ thương mại giữa hai nước sẽ được cởi bỏ tất cả trong quá trình Việt Nam thực hiện chính sách hội nhập của mình.
Nhờ những chuyển động tích cực của cả hai phía, các chuyên gia kinh tế thế giới đều rất kỳ vọng vào sự phát triển của quan hệ thương mại Việt - Mỹ. Quan hệ này sẽ ngày càng phát triển nếu từng nước biết phát huy những lợi thế so sánh của riêng mình. Những lợi thế đó là do vị trí địa lý - kinh tế - chính trị cùng với vị thế kinh tế của từng nước trong bối cảnh kinh tế toàn cầu qui định. Việt Nam đang cần ở Mỹ một thị trường tiềm năng về vốn, công nghệ, tri thức kinh doanh và quản lý. Mỹ đang tìm thấy nhiều lợi ích to lớn của mình ở Việt Nam về thị trường tiêu dùng, thị trường dịch chuyển cơ cấu kinh tế và trên hết đó là thị trường để từ đó, Mỹ có thể mở rộng hơn ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực châu á - Thái Bình Dương và Đông á.
Bài cổ võ thương ước Việt-Mỹ được kết luận: “Chúng ta tin tưởng quan hệ thương mại Việt - Mỹ sẽ phát triển nhanh, ngang tầm với quan hệ của Mỹ với các con rồng khác ở châu Á.”

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.