Hôm nay,  

Được và mất

21/08/202210:45:00(Xem: 5621)

Truyện ngắn


couple in trou 


Trong hãng lắp ráp điện tử dân dụng tôi đang làm việc, đàn ông Việt có cả đống, bọn họ hầu hết đều qua Mỹ đã lâu, họ có nhà xịn, xe xịn nói tiếng Anh lau láu, thế mà thật kỳ thằng tôi mới qua chưa đầy tám tháng theo diện bảo lãnh đoàn tụ nói tiếng Anh bằng động từ “to huơ”, lại được lọt vào mắt xanh con nhỏ Việt lai Mỹ xinh xắn phổng phao cao một mét bảy lăm thư ký cho xếp Mỹ ở ngay công ty nầy.Thú thật thấy tướng ngồn ngộn của con nhỏ tôi thích mê đi chớ nhưng ngẫm lại thân mình tôi đâu dám đèo bòng. Ở bên này đàn bà con gái có giá hết xẩy, quý bà, quý cô hành hạ đàn ông con trai đủ thứ, đủ kiểu chứ đâu phải như ở Việt Nam mình mấy ông cao một mét ruỡi cũng bày trò quát nạt trịch thượng vợ nhà kiểu gia trưởng mà mấy bà cũng im re, đâu…

 

Một hôm sau khi tan sở, Lan – tên con nhỏ – rủ tôi uống “tea house'' ở một góc đường gần thư viện quận. Tất nhiên là tôi OK.Tôi lấy ticket xong đi lại bàn Lan đã ngồi sẵn đấy rồi.Tôi thấy Lan quan sát tôi chăm chú cô ta nhìn từ trên xuống dưới dừng hơi lâu ở đôi vai năm tấc rộng của tôi giống như người ta tính toán ước lượng một cái gì. Tôi ngồi xuống Lan kéo ghế ngồi xích gần lại ướm ướm bàn tay lên lồng ngực vốn vạm vỡ của tôi. (À quên tôi chưa nói về mình. Tôi hai mươi hai tuổi cao một mét tám tư là vận động viên thể dục thể hình khi ở Việt Nam có thụ nghiệp thầy lực sĩ Lý Đức một thời gian khá lâu đồng thời cũng là cầu thủ bóng chuyền chuyên nghiệp của thành phố).

 

Trông cử chỉ của cô ả tôi bỏ bụng mắm, bụng muối hy vọng tràn trề thầm nghĩ chỉ có Chúa mới có đủ quyền năng gắn dính cuộc đời bầm dập của một thằng tay trắng mới chân ướt chân ráo nhập cư như tôi với một người phụ nữ lai hai dòng máu lai xinh đẹp có nhà cửa có thu nhập cao sinh trưởng nơi xứ Huê Kỳ giàu có nầy.

 

Quen nhau đâu được ba tháng Lan chủ động đề nghị tôi về sống chung với cô ta. Sao lại có cái may mắn lạ kỳ thế nhỉ! Người ta nói người Mỹ hào phóng là bé cái lầm, ở đây không có cái gì là free cả mặc dù tiếng”cho không'' đó lặp đi lặp lại muốn điếc con ráy suốt ngày trên mấy chương trình quảng cáo. Thế mà tôi được Lan gọi về sống ở căn hộ sang trọng của cô ta lại được chiếm hữu tấm thân ba vòng cân đối, chắc nịch tràn trề yêu lực ấy nữa thì, Oh my God, tôi quả thật là người mà ông thần hạnh phúc đã đến hồi gõ cửa.

 

Đêm hợp cẩn ở nhà Lan tôi được cô ta đối xử trên mức tình cảm của một người vợ trẻ dành cho chồng trong đêm đầu tiên của cuộc đời chồng vợ. Tất nhiên Lan không còn nguyên khi đến với tôi nhưng điều đó chẳng làm tôi bận tâm một chút nào. Con gái bình thường ở Mỹ trên hai mươi tuổi số còn nguyên cái ngàn vàng gần như của hiếm. Sự nồng nhiệt trong sinh hoạt vợ chồng không hề giảm trong những tháng đầu của cuộc sống chung cho đến một hôm Lan báo cho tôi biết với một vẻ mặt vô cùng mãn nguyện cô đã có tí nhau, một hoàng tử nghiêm chỉnh. Tôi mừng hết lớn gọi điện báo tin lung tung từ ba mẹ, chị em tôi ở quê đến những đứa bạn thân từ ngày còn học cấp ba ở Đà Nẵng.Tôi đến chùa Việt Nam gần nhà tôi thuê trọ quỳ lạy tạ ơn Trời Phật dù tôi chẳng theo một tôn giáo nào. Niềm vui còn lâng lâng trong tôi thì một hôm vào cuối tuần sau khi đi làm về tôi thấy tất cả áo quần vật dụng thiết thân của tôi đã được sắp xếp vào va li một cách ngăn nắp ở phòng khách. Căn phòng tôi và Lan làm việc vợ chồng bấy lâu đã bị khóa. Tôi tròn mắt nhìn cô ta dò hỏi. Dường như đã có chuẩn bị trước từ lâu Lan lịch sự mời tôi ngồi xuống ghế sô pha như giữa hai chúng tôi trước nay vốn là người xa lạ chưa hề chung đụng với nhau bao giờ.

 

– Anh Hoàng à! Lan tặc lưỡi. Tôi biết anh chưa chuẩn bị đón nhận việc này. Lan hơi ngập ngừng. Đã đến lúc chúng ta phải chia tay anh ạ, nhưng khoan (khi thấy tôi có động thái khác lạ), anh hãy bình tĩnh nghe tôi nói hết đã. Tôi nghĩ vốn là người thông minh anh sẽ mau chóng thức ngộ vấn đề và anh sẽ vui vẻ thôi.

 

Lan nói một thôi một hồi. Thấy tôi có vẻ ngơ ngác Lan cười cười giải thích:

 

– Tôi không phải là người nhập cư từ một nước chậm phát triển như anh. Tôi là người phụ nữ sinh ra và lớn lên ở đất nước giàu có tôn trọng tự do tuyệt đối này. Tôi không thích bất cứ sự ràng buộc nào. Anh biết rồi đấy khi tôi cùng anh sống chung với nhau tôi chưa hề hứa hẹn là sẽ sống chung trọn đời với anh. Chúng ta chưa có một sự ràng buộc nào về mặt pháp lý. Nói trắng ra, nếu muốn lấy chồng tôi đã không chọn anh. Anh thử nghĩ với income ít ỏi của một người mới nhập cư như anh, có đủ để đảm bảo cuộc sống của mẹ con tôi một cách trọn vẹn được không (vừa nói Lan vừa xoa xoa bàn tay vào cái bụng bầu bây giờ đã bắt đầu nhu nhú).

 

– Thế tại sao cô lại ác tâm chọn tôi, gieo niềm hy vọng cho tôi lấy của tôi một đứa con rồi lại bỏ tôi một cách không thương tiếc dù tôi chưa hề phạm phải lỗi lầm nào đáng kể để cô phải làm như vậy.Tôi còn cố vớt vát.

 

– Anh lầm rồi anh Hoàng ạ! Cô ta bắt đầu nói huỵch toẹt. Tôi chung sống với anh không phải vì tôi yêu anh, tôi chỉ kết cái thể hình lý tưởng của anh tôi đã lấy tấm thân tôi trả giá để được di truyền cái gen của anh cho con tôi, bây giờ đã đạt kết quả mong muốn tôi có gần anh cũng là vô nghĩa nên chúng ta phải chia tay, tôi là người Mỹ chính gốc chơi rất sòng phẳng  không đòi hỏi anh phải có một chút bổn phận gì với con tôi. Anh chỉ có được chẳng có gì phải mất mà phải bận tâm. Tôi nghĩ anh nên lấy vợ là một cô nào đó cùng chạng với anh hoặc hằng hà sa số quý bà quý cô ở Việt Nam khao khát cuộc sống Tây và quên thời gian chung sống với tôi đi, xem như một giấc chiêm bao chẳng hạn.

 

Cô hí hoáy lục trong xách tay lấy một tập ngân phiếu và viết vào đó một con số nào đó rồi đưa cho tôi:

 

– Nếu anh còn nghĩ mình là bị hại thì tôi bồi thường thời gian hưởng thụ và truyền giống của anh và mong anh hiểu rằng đứa con đó là của riêng tôi, đừng bao giờ léo hánh đến nhà tôi nếu không muốn có sự dính dáng đến pháp luật.

 

Tôi không nhìn vào tấm check mà dòm vào đôi mắt từng nhìn tôi đắm đuối, dòm vào cái miệng nho nhỏ xinh xinh từng đêm... từng đêm rên rỉ trong những cơn khoái lạc tột cùng và một cơn cuồng nộ bất chợt lồng lộn dấy lên từ ngực trái đè nghẹt thanh quản.Tôi khạc khạc như một con thú cùng đường không nhìn cô ta và nhanh chóng quay ngoắt đôi chân run rẩy lần về phía cửa.

 

Nguyễn Đức Mù Sương

(Houston, TX)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.