Hôm nay,  

Còn trên ghế mục

10/27/202210:08:00(View: 3493)
Truyện Ký

Lady-Playing-a-Nguyet-Cam
Tranh Mai Trung Thứ.

                         

Ta là lữ khách

Hờn thân thế.

Lòng nặng u hoài

Giữa tịch liêu…

(Viễn Châu)

                                                                                 

Tôi nhớ rõ ràng như chỉ mới hôm qua. Những năm còn bé nhỏ ở tuổi 12. Có một chiều, tôi ôm con gà đứng khóc tỉ tê, khóc sướt mướt, dai dẳng trước căn lều của người hàng xóm. Đã qua không biết bao nhiêu thăng trầm, trôi nổi của những tháng năm dài… Vậy mà sự rúng động trong trái tim bé nhỏ của tôi vẫn y nguyên, vẫn còn như rất mới.

 

Trong một lần theo Ngoại về vùng quê vui Tết. Một sáng mờ sương, vẫn còn ngái ngủ, tôi dụi mắt ngồi nhìn đàn gà nhỏ ríu rít theo Mẹ tìm mồi. Tiếng gọi khàn đục nhưng chắt chiu lo lắng của Gà, gọi đàn con bé dại đang chạy luýnh quýnh, lúp xúp.Tôi nhìn thấy là lạ, hay hay.

 

Thêm chút âm thanh mỏng như tơ của mấy chú Gà nhỏ óng ánh vàng, làm tôi say sưa, ngẩn ngơ nhìn với những yêu thương lạ lùng. Suốt mấy ngày Tết tôi quanh quẩn, đi theo đàn gà nhiều hơn những thú vui khác, với bà con Nội Ngoại.

 

Trở lại Sài Gòn, tôi vòi vĩnh xin BaMẹ cho… nuôi gà. Cả nhà nhìn tôi cười như nhìn một con bé kỳ khôi, suốt ngày cứ lằng nhằng đòi toàn những điều vớ vẩn. Nhưng tôi cương quyết, tôi làm nư, và tôi ăn vạ…Dỗ dành rồi hăm he mãi không xong. Mẹ tôi chịu thua, hứa sẽ cho nuôi gà nếu tôi thi đậu vô Trưng Vương, trong mùa tuyển thi sắp tới.

 

Chuyện đèn sách của tôi, bỗng dưng chẳng có mục đích gì xa vời như chuyện lên cung trăng, hay tưởng còn phải khó khăn hơn thế. Đơn giản lại chỉ là mấy con gà… Vậy mà tôi đã chăm chỉ hơn, lo lắng hơn và có đêm còn lâm râm, thì thầm với rất nhiều lời cầu nguyện. Sau ngày thi, tôi về cộng trừ nhân chia ra hết điểm của những bài đã nộp. Rồi đoán quàng đoán xiên, tên tôi thế nào cũng phải nằm trong danh sách được tuyển chọn.

 

Tôi mơ màng trong đêm, giấc ngủ vang vọng có tiếng gà chim chíp với những bước chân ríu rít lăng quăng... Tôi xếp đặt trong đầu chỗ nào để gà không bị lạnh, chỗ nào để tôi ngồi học bài mà vẫn thấy gà lẫm đẫm, lao xao...

 

Ngày coi kết quả, dù dò đi dò lại đến mấy lần, vẫn không thấy tên mình trên những tờ niêm yết dễ ghét của Trưng Vương. Tôi vùng vằng bước ra khỏi cổng trường. Những bước chân hụt hẫng tôi đi, như xa lìa, như cách biệt  khỏi chiếc lồng gà mơ ước.

 

Tôi khóc ròng trên đường về nhà.

 

Tôi không phí hoài những giọt nước mắt khóc cho chữ nghĩa, cũng chẳng cần khóc làm gì cho sự xa vời của tương lai...Tôi khóc, chỉ vì sẽ không được nghe tiếng kêu chim chíp của những chú gà con dễ thương, bé bỏng.

 

Khi Ba Mẹ hiểu ra tôi nhớ đàn gà đến thẫn thờ. Biết tánh tôi bướng bỉnh, đã thích gì thì thích cho bằng được. Và chỉ có chết, chắc tôi mới chịu đầu hàng, để không còn mè nheo, khóc lóc...

 

Một chiều tan học, Sài Gòn mưa rất lớn với sấm sét đầy trời, không biết linh cảm điều gì, tôi đã không tìm chỗ trú mưa. Sốt ruột, tôi đạp xe băng qua những làn mưa rơi tầm tã, dù môi tôi lập cập lạnh, và tay run làm chiếc xe lảo đảo. Chẳng biết có gì như thúc hối tôi, phải vội vàng. Run rẩy đặt xe trước sân nhà. Sách vở ướt, áo ướt và tóc ướt, tôi được Mẹ cho coi Gà cùng với 4 đứa con nhỏ. Nước từ tóc tôi nhỏ giọt, rơi ướt hết trên lưng đẹp mượt mà của những con gà cũng đang lóng cóng, lạnh căm.

 

... Ta biết về đâu, biết ở đâu…

Lạnh hồn ta,

Theo.

Ngọn gió đông tàn…

 

Những chiều cuối tuần nghỉ học, tôi quấn quít với Ông bên cây đàn mà Ông gọi là “Đàn Kìm”. Tôi không thích âm thanh “kìm” chút nào, dù nó đã được đặt tự muôn đời cho tên của một tiếng đàn líu lo, nhưng nghe đầy sầu não, âm u. Tôi đổi là: “Trăng”. Bởi thấy thân đàn tròn như một bóng trăng…(Nguyệt cầm). Ông dựng căn lều nhỏ xiêu vẹo, ngay phía sau Nhà Nguyện trong xóm. Vị Linh Mục đã bao lần muốn dỡ lều, vì nó làm mất đi vẻ thẩm mỹ và trang trọng của một nơi cung kính. Nhưng Giáo Dân thương Ông, năn nỉ...Và Ông nương náu một mình nơi đây, như thế.

 

Tôi, nhỏ xíu. Thích ngồi nghe Ông đàn và ca vọng cổ. Ông và tôi hay ngồi trên một chiếc ghế dài đã mục, rão rệu lung lay như sắp gẫy, trước hiên lều. Răng Ông rụng gần hết nên phát âm không bao giờ tròn chữ, nhưng Ông ca với một giọng chân phương, ngân nga đầy truyền cảm, những câu vọng cổ hay vô cùng của Nghệ Sĩ Viễn Châu.

 

Và, tất cả chỉ bởi tiếng đàn.

 

Chính âm thanh não nùng của tiếng đàn, đã làm tuổi nhỏ tôi sa vào những man man buồn bã, mà tôi không hiểu phải gọi là gì?

 

Có lần, khi tôi sắp phải khóc vì tiếng đàn rầu rĩ, thê lương. Ngước đôi mắt ngây thơ tôi hỏi: “Có khi nào Ông tính ca cho Bé nghe, những lời vui vui hơn chút xíu không?” Ông chỉ cười, môi cười móm mém. Tôi chẳng hiểu ý nghĩa gì, qua nụ cười bí mật của Ông.

 

...Đi về đâu?

Khi sương lan…

...Đi về đâu?

Khi trăng tan…

 

Ông không có gì để giải sầu. Bên cạnh những câu vọng cổ u hoài, chỉ là chai đế trắng, rót trong vài chiếc ly quên rửa, và những... trái cóc.

 

*

 

Công viêc “chăn nuôi” của tôi chỉ là ngồi nâng niu, vuốt ve những chú gà bé nhỏ. Phần cho ăn, và dọn dẹp thì anh tôi phải chịu trách nhiệm. Không biết vụng về ra sao mà mấy gà nhỏ lần lượt chết hết. Trong một sáng Chủ Nhật, anh tôi hăm dọa, không còn muốn bận rộn vì Gà của tôi nữa. Anh muốn… Mẹ nấu món cà ri. Ngay lập tức tôi dỗi, bỏ cơm trưa, không cơm chiều. Sợ hãi, đêm đó tôi còn muốn mang gà vô mùng ngủ chung, như một sự cương quyết bảo vệ. Nhưng Mẹ tôi nhất định không cho. Tôi thương Gà, nhưng chợt có một hôm, tôi nghĩ đến chuyện mang Gà tặng Ông.

 

Lời hăm dọa của anh tôi, phần nào đã đưa tôi đến quyết định đau lòng này. Con Gà của tôi, thà nằm trên mâm cơm hiu hắt của Ông. Ít nhất, nó sẽ thay cho những trái cóc tội nghiệp, để sẽ là một bữa ăn thịnh soạn hiếm hoi. Chứ không thể nào được đặt trên bàn ăn nhà, trong sự thích thú, đắc thắng vì từ nay sẽ được nhàn nhã, của anh tôi…

 

Suốt cả tháng, tôi cứ nấn ná, tiếc xót và đắn đo. Tuần nào, sau khi ngồi nghe Ông đàn, và ca những câu vọng cổ buồn ê buồn ẩm xong. Trên đường về, tôi đều bùi ngùi hẹn sẽ mang Gà tặng Ông, ngày mai.

 

Ngày mai, rồi ngày mai... Sự chia xa với Gà sao mà khó khăn, đầy quyến luyến?

 

*

 

Tôi ôm Gà trong cảm giác xót xa của một lần ly biệt. Nhưng nhớ tới mấy trái cóc, những mồi nhắm  đáng thương của Ông, lòng tôi dạt dào chút niềm an ủi.

 

Tôi đang mang đến tặng Ông món quà đặc biệt nhất, món quà mà phải qua bao nhiêu là tranh đấu khó khăn, và đã trả giá bằng mọi thứ mặc cả với Mẹ, tôi mới có được. Đứng trước lều Ông, hôm nay còn có lao xao vài ba thiên hạ. Loáng thoáng tôi nghe nho nhỏ lời ai nói... Ông đã ra đi đêm qua. Một mình.

Tôi sợ hãi, quay bước như muốn vùng chạy, trốn xa khỏi căn lều. Căn lều vẫn có Ông, nhưng chỉ qua một đêm, sao chợt đã rất im lìm, lạnh lẽo. Và, đã rất khác.

 

Tay ôm Gà mà toàn thân run rẩy. Tôi oà khóc.

 

Tôi khóc cho tiếng đàn lan man buồn thảm. Khóc cho giọng ca móm mém, đã hát ra trăm lời ai oán. Khóc vì rồi đây, Ông sẽ chẳng còn có bao giờ ngồi với tôi, đàn ra những khúc bi ai, trên chiếc ghế nghèo nàn, rục rã.

 

Chiếc ghế mục, tượng trưng cho một cuộc sống tả tơi, âm thầm, và cô quạnh.

 

Tiện thể, tôi rên rỉ luôn cho sự trễ tràng. Tôi ghét mình đã cứ ráng nấn níu, tiếc nuối món quà mà cho đến hôm nay, tôi vẫn còn đang ôm khư khư nó trong tay…

 

Chợt ai đó trong Nhà Nguyện bước ra, tay khơi khơi, vung vẩy cây đàn.

 

Cây đàn, như có một sức hút huyền bí. Tôi vừa khóc, vừa năn nỉ xin đổi lấy con gà yêu dấu. Chẳng thắc mắc, Chú trao “Trăng” cho tôi.

 

Tay không còn ôm Gà, tôi ôm đàn trong đôi tay lạnh giá và khóc như mưa. Tôi đi lang thang, tôi đi quanh co, và lạc lối…Tôi cứ lơ mơ bước, như đang đi trong một giấc mộng hãi hùng. Mụ mẫm, tôi đã chẳng còn nhớ ra, đâu mới là nhà.


Chập chờn, trong những bước chân vấp váp của tôi, là lời ca vừa mới hôm qua của Ông.

 

...có một ánh đèn

Thấp thoáng trong sương

Ai đi đâu.

Trong đêm vắng,

Canh trường…

 

Tiếng đàn cùng lời ca, đã làm trái tim bé bỏng của tôi vút bay.


Tôi bay mông lung, tôi bay mịt mù xa tắp…Rồi ngã sấp xuống những nỗi buồn dễ sợ.

 

LêChiềuGiang

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Trong thế hệ ca nhạc sĩ trẻ của nền âm nhạc Sài Gòn trước 1975, cặp uyên ương Lê Uyên - Phương có một chỗ đứng đặc biệt, độc nhất. Sự nghiệp sáng tác của nhạc sĩ Phương kéo dài từ đầu thập niên 1970s ở Miền Nam sang đến tận Hoa Kỳ sau 1975, cho đến khi ông mất vào năm 1999. Nhiều ca khúc Lê Uyên Phương cho đến nay vẫn chưa được chính thức phổ biến, phát hành. Để tưởng nhớ 25 năm ngày mất của người nhạc sĩ tài hoa, ca sĩ Lê Uyên sẽ tổ chức đêm nhạc chủ đề “Lê Uyên Phương 25 Năm Cuộc Đời– Tình Yêu – Âm Nhạc” tại Saigon Grand Center thành phố Fountain Valley vào ngày 7 tháng 12 2024.
Cộng đồng người Việt tị nạn ở Mỹ và trên toàn thế giới đang tiến tới một cột mốc quan trọng: 50 năm ly hương kể từ sau biến cố Tháng Tư Đen 1975. Nhiều tác phẩm trong các lĩnh vực văn học nghệ thuật được thực hiện có liên quan đến sự kiện này. Tại đại hội điện ảnh Viet Film Fest 2024 vừa được tổ chức vào đầu tháng 10, bộ phim đoạt giải Trống Đồng dành cho phim dài xuất sắc nhất là New Wave của nữ đạo diễn Elizabeth Ai. Bộ phim tài liệu này ghi nhận lại một hiện tượng âm nhạc quan trọng của thế hệ người Việt trong thập niên 1980s: dòng nhạc new wave. Thế nhưng bộ phim không chỉ dừng lại ở khía cạnh âm nhạc, mà đào sâu hơn vào mâu thuẫn trong những gia đình Việt Nam trong những ngày đầu định cư ở Mỹ.
Thời gian là thứ được người ta ví như vó câu, vụt một cái là biến mất, chẳng bao giờ trở lại, có muốn níu cũng vô ích. Họa sĩ Phan Nguyên không dại chi mà níu, anh ghi lại rồi mặc cho nó sổng ra chạy đi. Tôi muốn nói tới anh, một người đã âm thầm lưu giữ những mảnh vụn thời gian của giới văn học nghệ thuật bằng cách ghi lại trong “Mượn Dấu Thời Gian”, tên tiếng Pháp là “Emprunt Empreinte”. Anh tâm tình: “Là một “sân chơi” rất riêng của Phan Nguyên từ khá lâu với giới văn nghệ sĩ, thân hữu gần xa, trong và ngoài nước, không phân biệt tuổi tác, sắc tộc, tôn giáo, chính kiến gì cả, miễn là họ đã có những tác phẩm hay, đẹp để lại cho đời và cho thế hệ mai sau, miễn là họ đã đóng góp cái phần tinh túy nhất của con người, của chính mình cho văn học nghệ thuật Việt Nam hay thế giới nói chung”.
Để ta cùng vượt thời gian, không gian. Một trăm năm nữa, nếu có cơ duyên hội ngộ, vẫn chuyện trò tự nhiên, vui vẻ, như từng gặp gỡ tự bao giờ. Vui vẻ, vì cả đời chỉ thích viết văn, làm thơ. Viết văn, trừ trường hợp bất khả kháng, tôi vẫn cố gắng viết vui, cho bạn đọc đỡ nản. Nay tự nhiên lâm cảnh ngặt nghèo, phải đem chuyện vật lý, khoa học, Vũ trụ càn khôn, vừa nhàm chán vừa khó hiểu, ra trình làng… nên càng phải cố viết vui, viết giễu. Để may ra vớt vát được phần nào.
Trong lãnh vực sáng tác từ ngôn ngữ cho đến tác phẩm trực quan, các chuyên gia và các tác giả đang quan tâm đến khả năng sáng tạo của AI, sự hiện diện và tác dụng của trí thông minh nhân tạo sẽ làm thay đổi quan niệm và phương pháp, kỹ thuật và nghệ thuật truyền thống. Các chuyên gia về máy học dự đoán rằng AI sẽ "viết" một cuốn sách bán chạy nhất của tờ New York Times vào năm 2049 (Grace và cộng sự, 2018; Hall, 2018). Lãnh vực sáng tạo tính toán đã được xác định là biên giới tiếp theo trong nghiên cứu AI (Colton & Wiggins, 2012) và có ý nghĩa hấp dẫn đối với ngành công nghiệp văn học. Các thuật toán có khả năng tạo ra ngôn ngữ tự nhiên (Gatt & Krahmer, 2018) Các nghiên cứu về sáng tạo tính toán tập trung vào việc xác định các yếu tố cốt lõi của các hình thức sáng tạo (như văn học, nghệ thuật thị giác và âm nhạc) theo góc nhìn thuật toán, với mục đích sao chép hoặc kích thích sự sáng tạo của con người (Turner, 2014; Besold và cộng sự, 2015; Veale và cộng sự, 2019).
1)Tưởng niệm MC Phạm Phú Nam 2)Nhớ về cuộc di cư 1954. 3)Chiếu Phim Sài gòn trước 75 4)Chào đón minh tinh Kiều Chinh đến San Jose. Chiều ngày thứ bẩy 27 tháng 7 năm 2024 vừa qua chúng tôi đã có dịp nhân danh Viet Museum kịp thời trả những món nợ cho lịch sử. Số là anh chị em chúng tôi vẫn còn nhớ về chuyến di cư 1 triệu người từ Bắc vào Nam 70 năm xưa.
Anh Cao Huy Thuần vừa qua đời lúc 23giờ 26 ngày 7-7-1924 tại Paris. Được tin anh qua đời tôi không khỏi ngậm ngùi, nhớ lại những kỷ niệm cùng anh suốt gần 60 năm, từ Việt Nam đến Paris. Anh sinh tại Huế, học Đại Học Luật Khoa Sài Gòn (1955-1960) và dạy đại học Huế (1962-1964). Năm 1964 anh sang Pháp du học. Năm 1969 anh bảo vệ Luận án Tiến sĩ Quốc Gia tại Đại Học Paris, và giảng dạy tại Viện Đại Học Picardie cho đến khi về hưu.
Khi lần đầu tiên gặp một họa sĩ, tôi thường có khuynh hướng tìm vài nét tương đồng để liên tưởng đến một họa sĩ nổi tiếng nào đó thuộc những thế hệ trước. Với Nguyễn Trọng Khôi, tôi cũng làm như vậy nhưng trừ vài nét chung chung như được đào tạo ở trường ốc hay năng khiếu, tôi không tìm được gì đậc biệt. Nguyễn Trọng Khôi (NTK) không giống một họa sĩ nào khác.
Hồ Hữu Thủ cùng với Nguyễn Lâm, Nguyễn Trung của Hội Họa sĩ Trẻ trước 1975 còn sót lại ở Sài Gòn, họ vẫn sung sức lao động nghệ thuật và tranh của họ vẫn thuộc loại đẳng cấp để sưu tập. Họ thuộc về một thế hệ vàng của nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Bất kể ở Mỹ như Trịnh Cung, Nguyên Khai, Đinh Cường… hay còn lại trong nước, còn sống hay đã chết, tranh của nhóm Hội Họa sĩ Trẻ vẫn có những giá trị mang dấu ấn lịch sử. Cho dù tranh của họ rất ít tính thời sự, nhưng cái đẹp được tìm thấy trong tác phẩm của họ lại rất biểu trưng cho tính thời đại mà họ sống. Đó là cái đẹp phía sau của chết chóc, của chiến tranh. Cái đẹp của hòa bình, của sự chan hòa trong vũ trụ. Cái mà con người ngưỡng vọng như ý nghĩa nhân sinh.
Westminster, CA – Học Khu Westminster hân hoan tổ chức mừng lễ tốt nghiệp của các học sinh đầu tiên trong chương trình Song Ngữ Tiếng Việt (VDLI) tiên phong của học khu. Đây là khóa học sinh đầu tiên ra trường và các em sẽ được ghi nhận tại buổi lễ tốt nghiệp đặc biệt được tổ chức vào thứ Ba, ngày 28 tháng Năm, lúc 6:00 giờ chiều tại phòng Gymnasium của Trường Trung Cấp Warner (14171 Newland St, Westminster, CA 92683).


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.