Hôm nay,  

Ngọn gió phương nam

29/11/202213:47:00(Xem: 5299)
Truyện

đêm
Tranh Đinh Trường Chinh.

Tháng hai.

Những ngày tháng hai, cô luôn nhớ anh da diết. Và cô không hiểu tại sao. Một số năm về trước, cũng vào một ngày tháng hai, cô đã bắt đầu một câu chuyện về anh trên blog của mình, tựa đề "Mối tình thứ nhất", nhưng với tính dông dài tỉ mỉ cố gắng ghi lại như nhật ký của mình cô chưa bao giờ kể được qua cái lần họ đi Crown xem phim với nhau, bộ phim "Một vụ giết người hoàn hảo" dù cô vẫn nhớ như in bầu trời Melbourne trắng nhợt lúc mười hai giờ đêm đó. Như nhớ cuộc điện thoại “sách vở” của anh sau khi đưa cô về nhà bằng taxi và lập tức gọi cho cô khi vừa đặt chân vào nhà mình để thể hiện là anh đang theo đuổi cô, theo lý thuyết anh học được từ quyển "Đàn ông sao Hỏa, đàn bà sao Kim" của John Gray. Như nhiều thứ trong đời cô, tạt ngang túm lấy thọt lét cô hoặc cọ quậy dựa vào tâm hồn mịn như nhung của cô trong một phút giây rồi lại im lặng chìm vào những ầm ào ồn ã bận bịu ngày thường cuộc sống. Anh là thế. Anh đã ghé qua đời cô, xuất hiện rất bất ngờ, biến mất bất ngờ, lại xuất hiện bất ngờ và lại biến mất. Anh còn xuất hiện một lần nữa, để cuối cùng là biến mất vĩnh viễn.

Đôi khi cô vẫn còn ngỡ ngàng. Có phải là vĩnh viễn. Cô đã nói gì sai ở email cuối cùng cô gởi cho anh. Rất đơn giản lúc đó cô bảo cô sẽ đi Thụy Sĩ và mong có thể gặp anh. Anh im lặng. Và từ đó không trả lời email cô nữa. Cô cũng không biết bây giờ anh có còn xài hộp mail đó nữa hay không. Qua bạn bè mình cô biết anh vẫn giữ liên lạc với người anh học cùng trường đã tình cờ giới thiệu cô với anh, nhưng không còn liên lạc với cô nữa. Thi thoảng đôi lần nhớ quá cô lên mạng tìm anh, thảng hoặc tìm được một thông tin anh tham gia một giải cầu lông-cờ vua nào đó, một tấm ảnh nhỏ xíu anh cười hiền hiền nhưng đã mập ra hơn nhiều so với anh chàng dong dỏng cao chuyên nói “chập cái, chập cái” và ngớ ra không hiểu bài thơ bậc vỡ lòng “làm anh khó lắm” mà cô đọc cho nghe. Cô tìm được một dòng tên anh trong một bảng sơ đồ của một công ty lớn đa quốc gia, anh vẫn làm ở đó đến giờ. Trưởng bộ phận kiểm toán nội bộ. Bạn cô bảo rằng vị trí đó ở tâp đoàn đó lương phải 500 ngàn franc Thụy Sĩ một năm. Cô cười. Ừ thì lương 500K/năm. Thì sao. Bạn cô ở Thụy Sĩ đã bảy năm, nhưng chưa bao giờ gặp anh dù Thụy Sĩ rất nhỏ. Cô bảo "chắc là không có đủ duyên". Cũng như cô, có lẽ duyên đã dứt từ khi cô dự định đi Thụy Sĩ lần thứ nhất, mà vẫn mãi là dự định.

Những cơn gió lạc loài của Châu Âu, giữa mùa covid, chở bao nhiêu con virus nhớ thương, chở đến cho cô một hoài niệm xa xăm về những ngày ngỡ ngàng trên sân trường đại học, từ một buổi gặp mặt định mệnh trên chiếc cầu lộng kính ba mặt vắt vẻo treo trên đầu hai con đường như một sợi dây văng, nối hai tòa nhà cũ kỹ trường Đại học M. ngày xưa, nhà T và nhà B. Cô, đứng đó, cùng anh, và anh bạn mà anh vẫn còn giữ liên lạc ấy, và nhìn mối tình trước đó của mình tung tăng đi cùng cô bạn gái bên dưới đường. Gần nhau quá, mà xa nhau quá. Như một đám rêu dĩ vãng mướt mềm vừa nhẹ nhàng chuồi khỏi tay cô hòa theo dòng nước uốn lượn chảy về cuối nguồn, còn cô bâng khuâng bám vào một tảng đá gồ ghề vững chãi nhô ra bên lòng suối. Bấu víu, tựa nương chăng.

Họ chưa bao giờ hôn nhau. Hơn thế, thậm chí, họ chưa bao giờ nắm tay nhau. Một lần đi mua áo veste, anh bảo "nếu người ta gặp em đi với anh như thế này, hỏi anh có phải bạn trai em thì sao?" Cô ấp úng "Không phải, em sẽ nói là bạn thôi." Nếu mà cô thông minh hơn một chút, nếu mà cô từng trải hơn một chút. Nếu mà cô bớt ngại ngùng bẽn lẽn một chút. Cô đã hiểu được anh, hiểu được cái ham muốn rừng rực từ cặp mắt nóng rẫy cạnh cô trong rạp chiếu phim Crown năm đó. Cô có lẽ chỉ cần ngả đầu vào vai anh, họ sẽ có một chuyện tình không biết mặn nồng bao lâu nhưng chắc cũng thấm đẫm nước mắt. Sau này cô nghĩ, với nhiều người con gái, có lẽ, khoảng cách giữa trinh trắng và từng trải chỉ nằm ở một cái nắm tay, hay một cái ngả đầu vào vai nhẹ nhàng như một hôm nào say nắng. Cô không biết, cô đã không dám. Cô sợ hãi. Cô không biết làm sao đối diện với tình cảm của mình. Có nhiều năm sau cô vẫn còn nhớ, tiếc, luyến thương và thầm thì “giá mà”, “giá mà”. Cô nói “giá mà” nhiều lắm, với nhiều cuộc tình lắm, nhưng có lẽ “giá mà” với anh là nhiều nhất, mối tình trong sáng nhất của cô, mối tình làm cho cô hẫng đi vài nhịp tim, nhiều lần.

Thụy Sĩ, từ đó, trở thành một đất nước thân thiết với cô. Xa lạ, mà gần gũi. Vì anh sống ở Thụy Sĩ. Vì anh đã từng đi vượt biên lúc 5 tuổi trên một con tàu không cơm ăn nước uống 3 ngày liền mà vẫn sống sót. Anh bảo "số mệnh cho anh sống để làm một điều gì đó to tát hơn." Cô tin là như thế. Bây giờ, anh có làm điều gì to tát hơn hay không, cô không biết được. Họ đã đi bên cạnh nhau một đoạn đời rất ngắn ngủi, anh đã viết vào lòng cô một dấu khắc không quên, cho dẫu, chỉ là một vết khắc vô hình.



Anh chưa bao giờ cố gắng theo đuổi cô quá dài, trong tất cả những lần gặp mặt. Anh gọi điện cho cô, rất khuya, nói chuyện rất dài. Một lần ngay trước khi cô thi. Họ nói cười rúc rích. Cô thấy anh lạ. Lạ vì không rành tiếng Việt. Lạ vì cái tính bộc trực bông khơi, muốn gì nói nấy. Lạ vì quan điểm sống. Lạ về tất cả. Rất, rất lâu sau này, cô mới biết là chỉ cần một người đàn ông có thể gợi cho cô cảm giác “lạ” tức là họ đã đi được nửa đường đến trái tim cô, một trái tim cởi mở và tò mò một cách vô thức, ngây thơ háo hức ham vui ham mới mẻ như một đứa bé cho dẫu tuổi đời cứ tăng dần lên theo số hoa hồng nhận được vào ngày sinh nhật. Anh cứ cố gắng theo đuổi cô, chiều chuộng cô một chút, khi thấy cô không đáp trả điều gì thân mật hơn thì lại không chịu nổi, phải đi tìm một vài cô bạn gái khác, để thỏa mãn nhu cầu bản năng. Và vẫn gọi điên cho cô, kể là vừa đi chơi vui lắm, gặp nhiều cô gái lắm. Cô vẫn ngồi nghe, vẫn hớn hở bất cứ khi nào anh gọi điện. Trước khi anh bay về Thụy Sĩ, lần nào anh cũng dùng những đồng xu cuối cùng bỏ vào cái máy điện thoại xài tiền xu phổ biến hồi ấy ở sân bay Melbourne để gọi cho cô, trước khi boarding. Cô biết, đó là một trong những cách thức “cưa gái” mà anh học được trong sách vở nào đó. Sau này, cô có áp dụng ngược lại với một anh người yêu khác, và nghe rõ sự cảm động trong giọng nói của anh ấy. Chính xác mà, vì mình ngày xưa đã cảm động đến bao nhiêu, cô thầm nhủ.

Anh đã rủ cô đi chơi xa hai lần. Một lần, ở Úc. Đi Cairns. Cô không đi. Cô nghèo. Học bổng sinh viên, tuy dư tiền nhưng cô cố gắng chắt bóp gửi tiền cho gia đình. Và cô không biết xài tiền. Không dám xài tiền thì đúng hơn. Và nếu cô đã không dám nắm tay anh hay ngả đầu vào vai anh thì làm sao cô dám đi chơi xa với anh. Cho dù trong lòng vô cùng mong muốn. Để rồi, một năm sau, cô nhất quyết phải đi Cairns. Với một người bạn nam. Không phải bạn trai. Khi bạn đó chịu không nổi cảnh ngủ dưới đất trong cùng một căn phòng với cô và bỏ về nhà theo tiếng gọi tình yêu thì cô vẫn đi thơ thẩn trong cái thành phố biển đó mà tưởng tượng nó vô cùng thân thuộc vì một năm trước người con trai cô yêu đã đến đây vài ngày.

Một lần. Phú Quốc. Cô không đi được. Cô vừa chia tay một người yêu lúc đó. Cô vừa hết bệnh, ra khỏi bệnh viện, lập dập đi làm, chúi đầu trong một đống tài liệu và một chương trình huấn luyện nghiêm khắc. Anh dẫn cô và “lính” cô đi ăn. Anh hồn nhiên bảo anh tuổi con bò. Con bò. Năm nay, Tân Sửu. Ừ, năm nay anh đã bốn mươi tám tuổi. Có lẽ vì vậy, mà cô nhớ anh chăng. Cô không biết. Chỉ biết là, lần đó, cô cũng đã không thể đi Phú Quốc cùng anh. Vì cô không thể bỏ công việc này. Không thể vì anh. Khi anh bảo anh sẽ cưới vợ cuối năm nay, bên cạnh tô phở 2000 nghi ngút khói mà anh muốn đi ăn cho biết nơi Bill Clinton đã từng đến ăn khi đến Việt Nam, cô nghe đất trời sụp đổ. Tim rơi thêm một nhịp. Sét nổ trước mắt. Cô chớp mắt. Không thấy gì cả. Mất thêm mấy giây. Vẽ ra một nụ cười. Rồi cúi xuống bát phở. Rồi vẫn ngơ ra nghe anh nói cười tiếp tục. Như vậy, và vẫn bảo cô đi Phú Quốc với anh. Vẫn bảo cô lên phòng khách sạn với anh, mà cuối cùng, bảo vệ chặn họ lại bảo là đã quá giờ thăm viếng nên khách không được lên phòng. Cô không biết mình nên trách cái khách sạn năm sao có cái tên như truyền thuyết với những quy định ngặt nghèo đó hay nên cảm ơn nó. Khi cô còn trẻ, cô cảm ơn. Khi cô lớn hơn một chút, cô thầm tiếc “giá mà”. Bây giờ, cô lại ngậm ngùi "vì không đủ duyên thôi". Nhưng, vũ trụ vẫn thương ta, hay là, thương đàn ông, vì, nếu đã có chuyện gì giữa họ, có lẽ, cô đã hận đàn ông thêm nhiều đến bao nhiêu, cô nghĩ.

Cô đã từng dùng một đêm hôn một anh chàng khác đến từ Thụy Sĩ, cũng chỉ vì hai chữ Thụy Sĩ, vào một đêm giữa tháng mười hai một năm nào đó. Đã gửi cho anh ta một tấm thiệp nhẹ nhàng, nhận lại một email nhẹ nhàng, vài tấm ảnh, và kết thúc một chút lãng mạn vu vơ, một chút mơ mòng. Cô đã dùng tuổi trẻ của mình để yêu những tình cảm không kết quả lãng đãng như sương khói như vậy. Ký ức về anh đọng lại. Hôm nay cô gặp một anh chàng khác, hoàn toàn khác, nhưng anh ấy gợi nhớ đến anh. Không rõ vì sao. Vì lạ. Vì cô cảm được cái mềm yếu bên trong cái rắn rỏi, hay là vì cô tưởng tượng anh có phần mềm yếu bên trong cái rắn rỏi của bản thân. Cô có thể lầm. Lầm với anh. Và lầm với cả anh chàng chiều hôm nay nữa. Nhưng không quan trọng. Cô đã bước qua cái tuổi chất vấn dằn vặt mình vì một vài lầm lẫn, giờ có biết mình lầm cô vẫn chọn tiếp tục lầm lạc, đôi khi.

Cô đẩy cánh cửa, một cơn gió ào ngang. Những bông tuyết nhỏ li ti Bắc Mỹ trượt dài trên chiếc áo khoác màu trắng tuyết trơn tuột. Ngọn gió có mang theo covid? Ngọn gió thành Hồ phương Nam. Anh.

– Trần Hạ Vi

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán. Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu. Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.
Thế giới sẽ tuyệt vời hơn, nếu những cuộc chiến tranh bỗng nhiên biến mất, để rồi những bất đồng giữa người với người sẽ giảm nhiệt để chỉ còn là những cuộc phản kháng không làm hại ai. Lúc đó, bạn hãy hình dung, cõi này sẽ không cần tới súng đạn hay phi cơ, tàu chiến. Lúc đó, vũ khí phản kháng chỉ còn là thơ, tượng, hình vẽ... Người ta sẽ kể chuyện tiếu lâm, sẽ vẽ tranh hí họa... để chọc quê nhau, giễu cợt nhau. Lúc đó, những tờ giấy trắng và những bức tường sẽ là vũ khí tiềm năng, khi chúng ta viết chữ lên giấy và vẽ lên các bức tường. Đó là những bức tường biết nói. Các họa sĩ đã biến khu phố lịch sử Bo-Kaap của Cape Town thành một cuộc triển lãm nghệ thuật công cộng nhằm thể hiện tình đoàn kết với người Palestine ở Gaza. Dự án mang tên "Tranh tường cho Gaza" (Murals for Gaza) được khởi động vào tháng 12 năm 2023 bởi cư dân địa phương Obeidullah Gierdien.
Từ nhỏ, mẹ tôi đã đọc cho tôi nghe truyện Trương Chi và Mỵ Nương nên tôi biết Trương Chi thổi sáo rất hay. Lớn lên, khi học trung học đệ nhất cấp, tôi nghe được ca khúc “Trương Chi” của nhạc sĩ Văn Cao, tronng bài đó, có câu “Anh Trương Chi, tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung…” tôi mới biết Trương Chi không thổi sáo mà hát trên sông. Vậy thì tiếng sáo hoặc tiếng ca đã làm Mỵ Nương say đắm? Văn Cao nổi bật với hai ca khúc “Thiên Thai” và “Trương Chi.” Cả hai đều được viết trong dạng truyện với kịch tính. “Trương Chi” là ca khúc có hình thức vừa, nghĩa là có chiều dài giữa ca khúc bình thường và trường ca. Tại sao có kịch tính?
Phạm Duy là một trong số nhạc sĩ đặt lời thành công từ bình dân đến cao kỳ cho ca khúc do ông sáng tác, do ông dịch hoặc viết lời cho nhạc ngoại quốc. Trình độ nghệ thuật ngôn ngữ và khả năng nhạy cảm với ngôn từ của ông có khi còn cao hơn những người làm thơ chỉ để làm thơ. Phạm Duy là người sáng tác lời hay, có ý nghĩa và quan trọng là thể hiện được cảm xúc trong giai điệu và tinh thần của ca khúc. “Nghìn Trùng Xa cách,” một ca khúc tôi cho là hoàn tất về nhạc lẫn ca từ. Có thể xác nhận, đây là một bài thơ tình đầy đủ cảm xúc và trí tuệ, được xây dựng trên ba đoạn, theo cách văn học, gọi là ba mảnh. Không theo cấu trúc của ca khúc, ví dụ như A,B,A’ mà theo tâm sự ký ức và ý nghĩ, ba mảnh rời tạo nên tổng thể.
Phế tích của ảo ảnh, nhan đề một tập thơ của nhà thơ Trịnh Y Thư, do Nhà xuất bản Văn Học Press ấn hành năm 2017 tại Hoa Kỳ. Một nhan đề chất chứa không biết mấy lớp không gian và thời gian, không biết mấy thức của cảm xúc; nó như một sợi chỉ mà khi kéo ra chỉ thấy vô tận. Điều gì làm hoang mang và quyến rũ tôi đến vậy? Chữ “Phế tích” tác giả dùng cho “Ảo ảnh” khiến cảm xúc cuốn theo chiều hút của vực thẳm, trong đó nỗi hoài niệm treo lơ lửng trên dốc thời gian, lịch sử và thân phận, như một thách thức...
Chiều thứ Bảy 23 tháng 8 sắp tới đây, chúng ta sẽ được xem màn trình diễn Hợp Xướng "Chinh Phụ Ngâm" lần đầu tiên ở Hoa Kỳ. Nhà hát Rose Center Theater chuyên dùng cho các buổi hoà nhạc hay nhạc kịch ở Quận Cam sẽ là nơi vở hợp xướng trang trọng này được diễn ra. Cùng với màn hợp xướng, Đoàn Văn Nghệ Lạc Hồng sẽ giới thiệu Chương Trình Ca Vũ Nhạc Kỷ Niệm 50 năm viễn xứ "Cánh cò xa xứ" tại đây. Rất phấn khởi với tin tức này, tôi lại có cơ duyên quen biết và tiếp xúc với Nhạc Sĩ Vũ Đình Ân, tôi tìm gặp ông để tìm hiểu thêm về vở hợp xướng "Chinh Phụ Ngâm".
TÔI LÀ AI? Dường như mãi mãi là một câu hỏi cho cuộc sống của con người tại thế. Và câu trả lời của nó, hẳn nhiên, không thể và không chỉ là một cụm từ, cho dù có thể sâu xa đến đâu. Phùng Thanh Hà, một phụ nữ tôi quen biết, tuy cùng ở một thành phố nhưng phải đánh một vòng đến Thuỵ Sĩ, qua một người bạn (đạo diễn Síu Phạm), tôi mới gặp được cô ấy. Tôi kể điều này để muốn nói rằng, tương ngộ là tuỳ duyên, không chỉ trong các mối quan hệ mà còn là những vấn đề liên quan, những cơ sự sắc tướng hoặc vô sắc tướng nơi mỗi cá nhân.
Độc giả Việt Báo hẳn đã quen với Bùi Chát – nhà thơ – qua nhiều thi phẩm đặc sắc từng đăng tải trên trang báo này suốt bao năm qua. Tuần rồi, Việt Báo vừa giới thiệu tập thơ mới Chúng Ta Đang Trôi Đi Đâu với bài viết của Nguyễn Đức Tùng. Hôm nay, mời bạn đọc gặp lại một Bùi Chát - người họa sĩ. Anh đang có cuộc triển lãm tranh mang tên “đang trôi” khai mạc từ hôm nay và kéo dài đến hết ngày 24 tháng 7, tại Sài Gòn – một dịp hiếm quý dành cho các độc giả Việt Báo hiện đang có mặt tại Tân Định.
Nay ăn nhờ ở đậu nơi đất nước người, lấy chi mà “những điều trông thấy” kiểu như ngày xưa ấy. Nhưng thấy ý kiến của “bà hàng xóm” là một giải pháp khả dĩ, tôi nghĩ phải làm sao cho ra một bài viết vui vui thích hợp với xã hội đang sống. Trăn trở mãi rồi cũng eureka. Tôi đặt cái khung cho những bài mà tôi gọi là “phiếm”. Thứ nhất, đề tài bám vào những chuyện thời sự, nhất là những chuyện có liên quan nhiều tới cộng đồng người Việt sinh sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Thứ hai, phải viết với lối văn vui vui, tếu tếu nhưng vẫn giữ chừng mực. Thứ ba, phải có hơi hướm văn chương bằng cách dùng những giai thoại hoặc/và những chuyện thực nhưng vui khi tiếp xúc với các bạn văn.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.