Hôm nay,  

Hương vị quê nhà

02/12/202220:21:00(Xem: 5194)
Tùy bút

cach-nau-che-dau-xanh-danh
Chè đậu xanh đánh.


Huế có nhiều loại chè ngon tôi rất thích, như chè đậu ngự, chè đậu ván, chè bắp, dù không cần thêm nước cốt dừa như chè miền Nam. Gia đình chúng tôi chuyển nhà từ Huế vào Phan Thiết, rồi định cư tại Sài Gòn lúc tôi 6 tuổi. Tôi quen ăn các loại chè miền Nam có nước cốt dừa béo ngậy, nhưng vẫn thích chè Huế ở vị bùi của đậu, hương thơm của lá dứa. Có dịp ra Huế, tôi thường dạo chợ Đông Ba thưởng thức chè đậu xanh đánh, uống nước đậu rang đậm mùi Huế; hoặc cuốc bộ qua cầu Đập Đá ăn chén chè bắp nếp dẻo đầu mùa. Có lẽ những chén chè Huế là lý do tôi thích chè. Không biết có phải tôi thích ăn ngọt hay không, nhưng chắc chắn không phải là “phường hảo ngọt!”

 

Món chè tôi thích nhất và có nhiều kỷ niệm nhất là chè đậu xanh đánh, là loại chè rất quen thuộc với dân xứ Huế, nhưng tên gọi “đậu xanh đánh” hơi lạ với dân trong Nam và ngoài Bắc.

Lúc nhỏ ở với mẹ, những ngày kỵ, ngày Tết, mẹ tôi hay nấu chè đậu xanh đánh để cúng; và thường xuyên như vậy. Có lần tôi hỏi tại sao mẹ chỉ cúng chè đậu xanh đánh mà không thay đổi loại chè khác. Mẹ trả lời, vì chè đậu xanh đánh dành cho những ngày đặc biệt, những chè khác, chỉ nấu để ăn bình thường. Tôi thật sự không hiểu nó đặc biệt chỗ nào, chỉ biết, muốn nấu cho ra nồi chè đậu xanh đánh mịn-màng-vàng-bóng thiệt là rất mất công.

 

Hồi đó còn nhỏ, nhà có người giúp việc, chị em chúng tôi chưa biết nấu ăn nên tôi ham chơi hơn để ý tới chuyện bếp núc. Lớn lên, ngoài việc nhà, chúng tôi học nghề nấu nướng từ mẹ, kể cả món chè đậu xanh đánh đặc biệt của bà, chứ không phải là chè Cung Đình. Đậu xanh lúc đó chỉ bán loại nguyên hột hoặc nửa hột còn vỏ. Muốn nấu chè phải ngâm đậu trước một đêm, qua hôm sau vỏ tróc ra, đãi hết vỏ mới nấu được. Viết tới đây, tôi không nhớ chị tôi và tôi có “ký thỏa thuận” gì không mà chị luôn là người đãi đậu, còn tôi nấu chè.

 

Nhìn chị kê chiếc đòn ngồi dưới đất với ba cái thau, hai lớn, một nhỏ, và một cái rổ tre đan khít, tôi mất hết kiên nhẫn! Đậu ngâm đêm qua đã nở cao gần miệng thau, vỏ xanh nổi lên dày đặc một màu. Đầu tiên, chị tôi vớt bỏ hết lớp vỏ bên trên, trong thau còn những hột đậu vàng lẫn lộn vỏ xanh. Tiếp theo chị xúc một ít đậu vào rổ, bỏ qua thau nước trong rồi chà, lắc, lóng cho vỏ nổi lên tràn ra ngoài. Khi đậu trong rổ không còn vỏ, chị đổ qua thau nước nhỏ, lúc này những hột đậu vàng đều trông khá đẹp mắt. Thường thì tôi hay làm gì đó trong khi chị đãi đậu nên tôi không biết mất bao nhiêu thời gian chị xong việc, chỉ biết chị đãi đậu rất “điệu nghệ” và vui vẻ. Bù lại, tôi nấu chè cũng gọi là “có tay nghề”.

 

Theo kinh nghiệm của tôi, nấu chè thời chưa có máy móc tân tiến, việc nấu đậu là quan trong nhất. Nấu sao cho hột đậu chín đều, mềm không bị nhão hoặc bị cháy. Thứ nhì là đánh đậu khi vừa tắt bếp, đậu còn nóng. Khuấy nhanh tay cho đậu tơi ra, đặc mịn như bột nhồi, trước khi nó nguội. Đậu mà nguội khô rồi thì dù lực sỹ đánh bằng hai tay cũng không làm hột đậu mềm được. Vì vậy, nấu đậu chín đều cũng giúp việc đánh đậu dễ dàng hơn.

 

Thời gian cứ trôi cho đến năm 75, nếp sống giản dị của gia đình chúng tôi từ trước, nay có phần thay đổi, càng đơn giản hơn. Mẹ đang đi làm bình thường bỗng “được” cho nghỉ việc. Anh cả theo chiến hạm rời quê hương. Em trai út dang dở chương trình Đại Học. Duy chỉ có tập quán ngày kỵ, ngày Tết của mẹ là không thay đổi. Chúng tôi vẫn nấu chè đậu xanh đánh theo kiểu “truyền thống” vì trong nhà chưa có máy xay sinh tố. (Đồ đạc mẹ tôi đã bán bớt lấy đâu nghĩ tới việc mua thêm?) Tôi nhớ tiệm chè Hiển Khánh từ lâu đã dùng máy, xay đậu xanh nấu chè để tiết kiệm thời gian và nhân lực. Dù đậu xay ra đều hơn, không bị lợn cợn hột sượng nhưng chè không mịn thơm như đánh bằng tay kiểu Huế. Nói vậy chứ, dân Huế lúc đó có lẽ cũng dùng máy xay đậu nhiều rồi.

 

Khoảng năm 79-80, trong khi chúng tôi vẫn nấu chè đậu xanh đánh kiểu cũ thì chị tôi đã mua máy xay sinh tố. Chị lập gia đình, ra riêng nên việc đãi đậu do em gái và tôi chia nhau. Coi vậy chứ hai chị em xúm lại đãi hết thau đậu, kết quả cũng không bằng mình chị với đôi tay điệu nghệ bẩm sinh. Nấu chè thì vẫn là việc của tôi.

 

Chị tôi cũng xay đậu xanh để nấu chè đậu xanh đánh. Chén chè đậu xanh đánh bằng máy đầu tiên tôi được “nếm” vào dịp cúng đầy tháng con gái đầu lòng của anh chị năm 1983. Chị bấy giờ không cần ngồi dưới đất đãi đậu với ba cái thau và một cái rổ tre, vì đậu bán ra đã được chà sạch vỏ (đậu xanh cà); không cần đánh đậu mỏi tay với cây đũa cả, vì đã có máy xay sinh tố khuấy giùm; nấu chè bằng nồi cơm điện nên cũng không cần canh lửa to nhỏ. Khỏe thiệt đó nhưng chị tôi chắc “lụt nghề” rồi!

 

Mẹ tôi có một bộ chén kiểu nhỏ, dành riêng múc chè cúng. Chè phải múc lưng chén, không đầy, không dính lên mép chén, v.v... Gì chứ chuyện cúng kiến mẹ tôi nguyên tắc lắm! Xôi, chè cúng  được nấu cẩn thận. Đậu nấu chè sau khi đánh mềm phải khuấy từ từ với đường cát trắng, tiếp theo thêm nước sôi nấu trên bếp lửa nhỏ cho đến khi sôi lại. Vậy nên những chén chè để bên ngoài năm ba ngày vẫn chưa hư. Sau này chè được giữ trong tủ lạnh càng lâu hư hơn, gần rằm tháng giêng, chuẩn bị nấu nồi chè khác, chè mồng 1 lúc đó tới chén cuối cùng vẫn còn ngon. Nhớ nhất nồi chè của mẹ luôn để dành lại chút ít dưới đáy để chúng tôi “vét nồi”. Phần chè vét này rất ngon vì nó đã hơi đặc và vì… quá ít!

 

Lúc đã lập gia đình và có con, tôi vẫn hay nấu chè, đủ loại, có thêm nước cốt dừa như người miền Nam. Nhưng Tết luôn luôn là chè đậu xanh đánh cổ điển, tôi không xay đậu bằng máy. Thời gian xa xỉ dành để nấu cho xong nồi chè, tôi thường tận hưởng niềm vui đó cùng với âm nhạc. Tôi thích mùi đậu thơm mịn như bột khi đánh bằng cây đũa cả. Tôi thích nhìn hai đứa con vui vẻ vét sạch nồi chè mẹ chừa lại.

 

Cho đến bây giờ, dù đôi tay hơi yếu, chén chè tôi đánh ngày càng có nhiều hột chưa nhừ; hai con đã có gia đình riêng, nhưng mỗi dịp đoàn tụ, chúng vẫn muốn ăn chè đậu xanh đánh do mẹ nấu.

 

– Hồ Thị Kim Trâm

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán. Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu. Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.
Thế giới sẽ tuyệt vời hơn, nếu những cuộc chiến tranh bỗng nhiên biến mất, để rồi những bất đồng giữa người với người sẽ giảm nhiệt để chỉ còn là những cuộc phản kháng không làm hại ai. Lúc đó, bạn hãy hình dung, cõi này sẽ không cần tới súng đạn hay phi cơ, tàu chiến. Lúc đó, vũ khí phản kháng chỉ còn là thơ, tượng, hình vẽ... Người ta sẽ kể chuyện tiếu lâm, sẽ vẽ tranh hí họa... để chọc quê nhau, giễu cợt nhau. Lúc đó, những tờ giấy trắng và những bức tường sẽ là vũ khí tiềm năng, khi chúng ta viết chữ lên giấy và vẽ lên các bức tường. Đó là những bức tường biết nói. Các họa sĩ đã biến khu phố lịch sử Bo-Kaap của Cape Town thành một cuộc triển lãm nghệ thuật công cộng nhằm thể hiện tình đoàn kết với người Palestine ở Gaza. Dự án mang tên "Tranh tường cho Gaza" (Murals for Gaza) được khởi động vào tháng 12 năm 2023 bởi cư dân địa phương Obeidullah Gierdien.
Từ nhỏ, mẹ tôi đã đọc cho tôi nghe truyện Trương Chi và Mỵ Nương nên tôi biết Trương Chi thổi sáo rất hay. Lớn lên, khi học trung học đệ nhất cấp, tôi nghe được ca khúc “Trương Chi” của nhạc sĩ Văn Cao, tronng bài đó, có câu “Anh Trương Chi, tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung…” tôi mới biết Trương Chi không thổi sáo mà hát trên sông. Vậy thì tiếng sáo hoặc tiếng ca đã làm Mỵ Nương say đắm? Văn Cao nổi bật với hai ca khúc “Thiên Thai” và “Trương Chi.” Cả hai đều được viết trong dạng truyện với kịch tính. “Trương Chi” là ca khúc có hình thức vừa, nghĩa là có chiều dài giữa ca khúc bình thường và trường ca. Tại sao có kịch tính?
Phạm Duy là một trong số nhạc sĩ đặt lời thành công từ bình dân đến cao kỳ cho ca khúc do ông sáng tác, do ông dịch hoặc viết lời cho nhạc ngoại quốc. Trình độ nghệ thuật ngôn ngữ và khả năng nhạy cảm với ngôn từ của ông có khi còn cao hơn những người làm thơ chỉ để làm thơ. Phạm Duy là người sáng tác lời hay, có ý nghĩa và quan trọng là thể hiện được cảm xúc trong giai điệu và tinh thần của ca khúc. “Nghìn Trùng Xa cách,” một ca khúc tôi cho là hoàn tất về nhạc lẫn ca từ. Có thể xác nhận, đây là một bài thơ tình đầy đủ cảm xúc và trí tuệ, được xây dựng trên ba đoạn, theo cách văn học, gọi là ba mảnh. Không theo cấu trúc của ca khúc, ví dụ như A,B,A’ mà theo tâm sự ký ức và ý nghĩ, ba mảnh rời tạo nên tổng thể.
Phế tích của ảo ảnh, nhan đề một tập thơ của nhà thơ Trịnh Y Thư, do Nhà xuất bản Văn Học Press ấn hành năm 2017 tại Hoa Kỳ. Một nhan đề chất chứa không biết mấy lớp không gian và thời gian, không biết mấy thức của cảm xúc; nó như một sợi chỉ mà khi kéo ra chỉ thấy vô tận. Điều gì làm hoang mang và quyến rũ tôi đến vậy? Chữ “Phế tích” tác giả dùng cho “Ảo ảnh” khiến cảm xúc cuốn theo chiều hút của vực thẳm, trong đó nỗi hoài niệm treo lơ lửng trên dốc thời gian, lịch sử và thân phận, như một thách thức...
Chiều thứ Bảy 23 tháng 8 sắp tới đây, chúng ta sẽ được xem màn trình diễn Hợp Xướng "Chinh Phụ Ngâm" lần đầu tiên ở Hoa Kỳ. Nhà hát Rose Center Theater chuyên dùng cho các buổi hoà nhạc hay nhạc kịch ở Quận Cam sẽ là nơi vở hợp xướng trang trọng này được diễn ra. Cùng với màn hợp xướng, Đoàn Văn Nghệ Lạc Hồng sẽ giới thiệu Chương Trình Ca Vũ Nhạc Kỷ Niệm 50 năm viễn xứ "Cánh cò xa xứ" tại đây. Rất phấn khởi với tin tức này, tôi lại có cơ duyên quen biết và tiếp xúc với Nhạc Sĩ Vũ Đình Ân, tôi tìm gặp ông để tìm hiểu thêm về vở hợp xướng "Chinh Phụ Ngâm".
TÔI LÀ AI? Dường như mãi mãi là một câu hỏi cho cuộc sống của con người tại thế. Và câu trả lời của nó, hẳn nhiên, không thể và không chỉ là một cụm từ, cho dù có thể sâu xa đến đâu. Phùng Thanh Hà, một phụ nữ tôi quen biết, tuy cùng ở một thành phố nhưng phải đánh một vòng đến Thuỵ Sĩ, qua một người bạn (đạo diễn Síu Phạm), tôi mới gặp được cô ấy. Tôi kể điều này để muốn nói rằng, tương ngộ là tuỳ duyên, không chỉ trong các mối quan hệ mà còn là những vấn đề liên quan, những cơ sự sắc tướng hoặc vô sắc tướng nơi mỗi cá nhân.
Độc giả Việt Báo hẳn đã quen với Bùi Chát – nhà thơ – qua nhiều thi phẩm đặc sắc từng đăng tải trên trang báo này suốt bao năm qua. Tuần rồi, Việt Báo vừa giới thiệu tập thơ mới Chúng Ta Đang Trôi Đi Đâu với bài viết của Nguyễn Đức Tùng. Hôm nay, mời bạn đọc gặp lại một Bùi Chát - người họa sĩ. Anh đang có cuộc triển lãm tranh mang tên “đang trôi” khai mạc từ hôm nay và kéo dài đến hết ngày 24 tháng 7, tại Sài Gòn – một dịp hiếm quý dành cho các độc giả Việt Báo hiện đang có mặt tại Tân Định.
Nay ăn nhờ ở đậu nơi đất nước người, lấy chi mà “những điều trông thấy” kiểu như ngày xưa ấy. Nhưng thấy ý kiến của “bà hàng xóm” là một giải pháp khả dĩ, tôi nghĩ phải làm sao cho ra một bài viết vui vui thích hợp với xã hội đang sống. Trăn trở mãi rồi cũng eureka. Tôi đặt cái khung cho những bài mà tôi gọi là “phiếm”. Thứ nhất, đề tài bám vào những chuyện thời sự, nhất là những chuyện có liên quan nhiều tới cộng đồng người Việt sinh sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Thứ hai, phải viết với lối văn vui vui, tếu tếu nhưng vẫn giữ chừng mực. Thứ ba, phải có hơi hướm văn chương bằng cách dùng những giai thoại hoặc/và những chuyện thực nhưng vui khi tiếp xúc với các bạn văn.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.