Hôm nay,  

Bà Deborah

11/12/202209:40:00(Xem: 3967)
Truyện

debodah

 


Thấy Steven vừa bước vào, ông Ronnie từ xa chạy lại cười toe toét, bắt tay húc ngực:

 

– Chào buổi sáng Steven, mày khỏe chứ? Mấy nay tao không thấy bà Deborah đi làm.

 

– Chào Ronnie, tao khỏe, cảm ơn đã hỏi thăm. Bộ mầy hổng biết gì sao? Con gái bả chết tuần rồi nên bả nghỉ phép ở nhà.

 

– Trời! Sao vậy? Tao có nghe gì đâu! Mà sao con gái bả chết vậy? Chẳng có ai nhắn tin cho tao hay.

 

– Con Sabina bị đột qụy, nằm viện Southern cả năm nay rồi, sống bằng ống trợ thở và trợ dưỡng. Bác sĩ nói hoàn toàn không có khả năng phục hồi vì vậy bà Deborah quyết định rút ống thở hôm tuần trước. Hôm thứ bảy vừa qua tao có đi nhà quàn viếng tang.

 

– Vậy mà cũng không kêu tao.

 

– Tao tưởng mầy biết

 

– Mầy có thấy ông James đi viếng tang không?

 

– Tất nhiên, hình như mầy nghĩ ông James có tình ý với bả phải không?

 

– Đâu chỉ mình tao, ông Robin, con Amanda và nhiều người nữa.

 

– Tao thật sự không nghĩ vậy! Tao biết rõ, họ chỉ là bạn bè thôi.

 

– Bạn bè gì mà tuần nào cũng ghé nhà bả, chở bả đi chợ, đi việc này việc kia, ai đâu dư hơi dữ vậy.

 

– Trời! mầy hiểu lầm rồi, ông James rảnh rỗi và tốt bụng. Bà Deborah cũng cởi mở, vui tánh, hổng yêu đương gì hết ráo! Tao cam đoan với mầy đó!

 

– Cả hãng đồn đại hai người cặp bồ nhau, còn mầy nữa, lúc nào cũng mẹ mẹ con con ngọt xớt.

 

*

 

Ông Ronnie năm mươi bảy tuổi, Mỹ đen nhưng nhỏ con như Steven, đã thế mắt lại hơi xếch, tóc nối và thắt thành cái bím dài giống hệt mấy anh thổ dân da đỏ, lại giống đuôi sam mấy anh ba Tàu. Ông Ronnie có trách nhiệm giao và nhận hàng đến đi, hổng biết sao ổng lại nhanh nhạy như những tay thám thính, hễ trong hãng có động tịnh gì là ổng biết sớm nhất, ai còn ai bị ra đi, ai lên hương, ai xuống chó, phúc lợi thế nào… Ổng biêt hết ráo và luôn mách cho Steven, dĩ nhiên là lúc nào cũng kèm theo câu căn vặn:  “Im miệng đấy nhé! Tao chỉ cho mày biết thôi đấy!”

 

Bà Deborah làm chung với Steven mười mấy năm nay. Bả kể tổ tiên bả đã ở thành Ất Lăng này đã hai trăm năm nay rồi. Hồi bà còn bé, bà nhớ nội và ngoại của bà đi hái bông gòn ở mấy điền trang quanh vùng Tara, thời ấy đã xóa bỏ chế độ nô lệ nhưng vẫn bị kỳ thị và khủng bố dữ lắm. Dòng họ của bà có nhiều người bị giết chết mà pháp luật chẳng làm gì cả, những kẻ giết người cứ nhởn nhơ. Người da đen vẫn bị đối xứ tàn ác, bị đánh đâp vô cớ và họ chỉ là công dân hạng bét. Bà Deborah cho biết chồng bà chết lúc bà mới ngoài ba mươi, ấy vậy mà bà không tái giá, ở vậy nuôi con cho đến tận bấy giờ. Tướng tá bà  ngon lành, chắc nụi chứ không đẫy đà phốp pháp như những người cùng trang lứa hay những người đàn bà da đen khác. Bà cười rất tươi, nhe mấy cái răng bịt vàng, mỗi khi bả cười làm Steven nhớ đến mấy ông già Việt ở quê ngày xưa cũng thích bịt răng vàng. Bà Deborah có cặp mông diêu trông nung núc rất xếch xy bởi vậy Steven thường ghẹo và khích tướng cho bà lắc mông, phải nói là như hai quả dưa hấu giật phừng phực làm cho cả bọn cười nghặt nghẽo, cười rũ ra. Steven gọi bà là má mi. Thằng Bryan cà khịa:

 

–  Deborah, bà có biết thằng Steven nó cà chớn không? Má mì trong tiếng Việt của tụi nó không phải nghĩa tốt đẹp đâu!

 

– Vậy chứ nghĩa là gì?

 

– Má mì nghĩa là người đàn bà chăn dắt gái, chủ chứa, bà chủ nhà thổ…

 

Bà Deborah trợn mắt:

 

– What the hell! What the you say? I don’t care! Tao không cần biết cái nghĩa tiếng Việt của tụi nó là gì. Tao là người Mỹ, tao chỉ biết tiếng Anh. Thằng Steven là con trai kết nghĩa của tao thì nó gọi tao là má mi.

 

Steven ôm chặt lấy bà Deborah:

 

– Má mi đừng có giận chi cho nặng bụng, má mi chứ hổng phải má mì. Thằng Bryan nó lươn lẹo thêm dấu huyền vào chữ mi đó!

 

Bà Deborah cười sảng khoái, ngoắc Bryan lại và giơ nắm đấm:

 

– Mầy cà chớn chứ hổng phải Steven cà chớn à nha!

 

Cả đám cười chảy nước mắt thắt cả ruột, cứ như thế suốt nhiều năm dài. Steven và mọi người làm chung, đùa giỡn chẳng khi nào ngớt. Con Sabina chết, bà Deborah còn thằng con trai William sống ở Boston, lâu lâu mới về thăm bà vào những dịp lễ tết. Đứa con gái út tên Izia thì sống ở Alabama, nó là dân les. Steven hỏi:

 

– Giờ con Izia gần nhất, sao bà với nó không sống chung nhà cho vui vừa tiết kiệm tiền nhà, tiền điện, nước…

 

– Không bao giờ, tao sống đời sống của tao, nó sống cuộc sống của nó.

 

– Bộ bà và nó không thương nhau? Không có tình cảm mẹ con?

 

– Thương chứ sao không, thương thì thương nhưng ai có đời sống riêng của người đó!

 

– Bà không sợ người ta cười chê hay kỳ thị hay sao mà cứ công khai con gái của bà là dân les?

 

– Tại sao sợ? Tự nhiên thôi! Chúa tạo ra như thế thì chúa phải có trách nhiệm, phải chấp nhận những gì chúa ban.

– Lý thuyết là vậy nhưng làm sao ngăn cản người ta kỳ thị?

 

– Có luật cấm kỳ thị rồi nhưng ở đời làm sao cấm tâm lý con người ta được! Tuy nhiên con gái tao như thế nào thì nó vẫn là con gái tao. Con gái tao có là dân les tao vẫn thương yêu nó, nó vẫn là công dân tốt, nó làm việc, đóng thuế đầy đủ, tuân thủ pháp luật. Nó có trách nhiệm công dân thì nó phải có quyền lợi công dân như mọi người. Nó yêu đàn ông hay yêu đàn bà là quyền riêng tư của nó. Nó có làm tình với ai trong buồng ngủ của nó thì đó là chuyện riêng tư của con người, tại sao phải kỳ thị? Tao đứng lên tranh đấu vì con gái tao và vì những người như con gái tao!

 

– Khi mà bà biết con Izia là dân les bà có buồn không?

 

– Không, hoàn toàn không! Nó vốn sanh ra như thế, nó cũng đâu có lựa chọn. Nó tự chịu trách nhiệm những gì nó làm cũng như cuộc đời nó.

 

Bà Deborah chẳng những không buồn mà có phần còn tự hào đứng trong nhóm gọi là:” Cộng đồng phụ huynh của con em LGBT”. Bà tham gia diễu hành, phát tờ rơi, hội họp kêu gọi bình đẳng và tranh đấu cho quyền lợi của những người như thế. Có nhiều lần Steven trêu:

 

– Bà cặp ôngJames phải không? Hai người cũng xứng đôi vừa lứa đấy.

 

– Steven, không bao giờ!

 

–Tại sao?

 

– Ông James có vợ, có gia đình của ổng. Tao không muốn làm tổn thương gia đình ổng, vả lại tao cũng không còn cảm xúc yêu đương gì sất!

 

– Bà góa chồng đã lâu, không yêu ông James thì lấy người khác cũng được, ông Kaseem chẳng hạn, ông ấy ly dị đã lâu và vẫn còn độc thân.

 

– Không, tao không cần đàn ông nữa, chồng tao trên thiên đường đang trông chừng và phù hộ tao. Tao không muốn làm ông ấy buồn. Tao sống độc thân để nuôi con mấy chục năm nay rồi, không có đàn ông cũng chẳng sao cả, bằng tuổi này rồi lấy chồng làm gì cho mệt.

 

Steven chỉ chọc ghẹo để tạo cớ vui cười nhưng khi nghe bà thật thà tâm sự thì thấy thương và phục bà quá. Bà không giống như những gì mà người ta thường nghĩ về đàn bà Mỹ da đen. Bà Deborah cũng như những người Mỹ khác, thường làm nghiêm đứng đắn chứ ít biết nói chơi, ít biết đùa như dân Mít mình. Bà cứ tưởng Steven nói thật nên bộc bạch cả nỗi lòng. Thật tình mà nói khó có thể thấy người đàn bà Mỹ da đen nào như thế .Bà rất giống những bà mẹ Việt, một mình nuôi con, hy sinh cả tuổi thanh xuân vì con, làm mẹ đơn thân suốt mấy chục năm dài không màng đến đàn ông, không nghĩ đến hạnh phúc riêng của mình.

 

Bà Deborah cần cù, chăm chỉ, nhẫn nại làm việc có lẽ bà là người thâm niên nhất trong hãng này, đôi khi có những sự việc bất công và vô lý đối với bà. Steven cảm thấy nổi nóng và giận thay cho bà trong khi đó thì bà lại im lặng chịu đựng, không hề kiện cáo hay thưa gởi gì. Cái sự âm thầm chấp nhận dường như di truyền từ thời ông cha của bà. Ngày xưa họ bị đàn áp, bị cai trị tàn bạo nhưng cố gắng cam chịu để sống còn, sau này thời thế thay đổi họ mới đứng dậy đấu tranh. Cái sự cam chịu của bà Deborah khiến Steven tức tối bảo bà phải lên văn phòng báo cáo để làm cho rõ sự việc ấy vậy mà bà chỉ cười trừ và bảo:

 

– Tao ổn mà!

 

Mỗi ngày gặp nhau, bà Deborah đều ôm Steven thật chặt và hỏi han như thể mẹ con ruột rà. Ông Robin  , một tay da trắng làm chung vẫn thường hay cà khịa:

 

– Steven, bà Deborah có phải là sugar mom của mầy?

 

Steven cười to:

 

– No sugar, Mom only!

 

Ông Robin vẫn cà khịa nháy mắt, đá lông nheo, hích cằm hướng về phía bà Deborah làm cho cả đám mắc dịch cười sặc sụa.

 

Bà Deborah cũng như những người Mỹ da đen ở cái hãng này họ rất biết cách hưởng thụ cuộc sống. Ngày thường đi làm, cuối tuần kéo ra công viên, bãi cỏ để làm BBQ, ăn uống, hát hò và nhảy múa. Họ rất khác với cư dân gốc mít mình. Dân mình làm bất kể thời gian, chỉ biết làm và đem tiền bỏ nhà băng, cái cách hưởng của dân mình cũng rất đơn điệu, chủ yếu đi mall mua sắm thế thôi! Ít khi và ít mấy ai năng nổ hoạt động hay thích sinh hoạt vì cộng đồng, vì vô vụ lợi, vì những chuyện văn hóa, thể thao của xã hội.

 

Có một lần bà Deborah kể chuyện xưa, bà bảo hồi bà còn nhỏ, thành Ất Lăng này không có nghề làm móng tay hay tiệm Nails, chẳng biết cái nghề này xuất hiện từ bao giờ. Giờ này đi đâu cũng thấy tiệm Nails, thậm chí có khu shopping có đến hai tiệm nail, có quãng đường hai dặm xuất hiện cả chục tiệm Nails. Bà Deborah chưa bao giờ đi làm móng, thỉnh thoảng có hội họp hay quan hôn tang tế thì bà mới đến tiệm Nails để sơn móng và chà gót chân. Bà kể với Steven lần cuối bà đến tiệm Luxury Nails và gặp phải một thanh niên trẻ chà chân cho bà, bà cảm thấy không thoải mái, trong lòng rất khó xử và thật sự không muốn người thanh niên ấy chà chân cho bà hay cho bất cứ đàn ông đàn bà nào khác, tuy nhiên bà vẫn cố gắng ngồi yên để cho anh ta làm. Bà quá tế nhị, không từ chối vì sợ người thanh niên trẻ ấy buồn lòng. Bà nói với Steven đó chỉ là một  cái nghề như bao nghề khác trên đời (just a business) nhưng anh thanh niên trẻ như thế đi chà chân cho những người khác làm cho lòng bà cảm thấy thương hại. Bà má kết nghĩa của Steven tuy không tóc nhưng không bao giờ đội tóc giả hay nối tóc như những bà Mỹ đen khác, tóc của bà quá mỏng ra tới đâu là quắn tới đó bám sát da đầu, và cứ mỗi hai tuần là bà nhuộm màu đồng, hoặc màu vàng pha đỏ… Bà Deborah là người đàn bà Mỹ da đen đặc biệt mà Steven gặp trong đời vì bà khác với tất cả những người đàn bà Mỹ da đen khác, không chơi tóc và chơi móng.  Bà Deborah nó với Steven:

 

– Sh...t! Tại sao làm việc khổ cực vậy mà đem tiền chi hết cho tóc và móng? Trong khi ấy có bao nhiêu việc khác cần hơn.

 

Bà Deborah cũng như những người khác ở đây, tin sâu ở chúa, cái gì cũng do chúa ban cho, thức ăn cũng thế dù bản thân bỏ công sức ra làm, trước mỗi bữa ăn đều chắp tay và lâm râm đọc kinh. Tuy là tin ở chúa như vậy nhưng chẳng mấy khi bà Deborah đi lễ nhà thờ, thậm chí bà còn nói:

 

– Tin ở đạo chứ không tin ở người có đạo

 

Hôm đi nhà quàn để viếng tang con gái bà, trông bà khác hẳn đi, ngày thường đi làm thì ăn mặc rất giản dị, ấy vậy mà trong lễ tang ở nhà quàn bà diện váy ngắn, tất da, giày cao gót, cổ quấn khăn choàng, vẽ mặt, kẽ mắt…. Tất cả những người đàn bà đi viếng tang cũng đều ăn mặc sang trọng và đẹp đẽ, đeo nữ trang đủ thứ… Steven đến ôm bà, nói lời chia buồn. Bà cảm ơn rồi nói:

 

– Như vậy tốt hơn cho con Sabina, sống đời thực vật rất khổ sở, giờ thì hết khổ rồi, Sabina sẽ gặp ba của nó ở thiên đàng.

 

Bà nói đầy vẻ hy vọng tin tưởng, Steven cũng cầu mong cho cô Sabina gặp ba của cô ta ở thiên đường. Nói thì nói vậy nhưng tình cảm mẹ con ở thế gian này cũng không sao thoát được cảnh đau lòng trước cảnh tử biệt sanh ly. Cũng may cái tập quán của người Mỹ không quá bi lụy và đau đớn như đám tang người Việt. Steven nhìn qua hàng ghế đầu thấy bà Deborah buồn hắt hiu và mắt hơi ngấn lệ.

 

Cây bạch lạp cháy lung linh ở phía trước quan tài, dòng sáp nóng chảy xuống và đọng lại như những giọt lệ cảm thông nỗi đau chia lìa vĩnh biệt của hai mẹ con bà Deborah.

 

– Tiểu Lục Thần Phong

(Ất Lăng thành, 12/22)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tháng Năm là tháng vinh danh những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho đất nước Hoa Kỳ mà trong đó tất nhiên có người Mỹ gốc Việt. Những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho Hoa Kỳ bao gồm rất nhiều lãnh vực, từ kinh tế, chính trị đến văn học nghệ thuật, v.v… Nhưng nơi đây chỉ xin đề cập một cách khái quát những đóng góp trong lãnh vực văn học của người Mỹ gốc Việt. Bài viết này cũng tự giới hạn phạm vi chỉ để nói đến các tác phẩm văn học viết bằng tiếng Anh của người Mỹ gốc Việt như là những đóng góp nổi bật vào dòng chính văn học của nước Mỹ. Điều này không hề là sự phủ nhận đối với những đóng góp không kém phần quan trọng trong lãnh vực văn học của Hoa Kỳ qua hàng trăm tác phẩm văn học được viết bằng tiếng Việt trong suốt gần năm mươi năm qua.
Vì hình ảnh ảm đạm, buồn sầu, như tiếng kêu đòi tắt nghẹn. Tôi, tác giả, đi giữa lòng thủ đô Hà Nội mà không thấy gì cả, không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Cờ đỏ là quốc kỳ. Mưa sa làm cho những lá quốc kỳ sũng nước, bèo nhèo, nhếch nhác, úng rữa. Một hình ảnh thảm hại. Hình ảnh thảm hại là dự phóng cho tương lai thảm hại. Và thất bại. Lạ một điều, người ta chỉ trích dẫn năm dòng thơ này, tổng cộng 14 chữ, mà không ai trích dẫn cả bài thơ, và hẳn là hơn 90% những người biết năm dòng này thì không từng biết, chưa bao giờ đọc, cả bài thơ, và tin rằng đó là những lời tâm huyết của nhà thơ Trần Dần nói về thời cuộc mà ông nhận thức được vào thời điểm 1955.
Viet Book Fest cho thấy thế hệ trẻ gốc Việt nay đã vượt qua được những ràng buộc cơm áo gạo tiền của thế hệ đi trước, để cộng đồng Việt nay có thể vươn lên với giấc mơ văn học nghệ thuật trên đất nước Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Hư vỡ là đặc tính bất biến của cuộc đời, của tất cả những gì có mặt trong vũ trụ này. Nghĩa là những gì hợp lại, thì sẽ tan; những gì sinh ra, rồi sẽ biến mất. Không có gì kiên cố, bất biến trên đời. Đức Phật đã chỉ ra sự thật đó, và biến những thái độ sống không vui thành sự kham nhẫn mỹ học: cái đẹp chính là vô thường. Bởi vì vô thường, nên có hoa mùa xuân nở, có những dòng suối chảy từ tuyết tan mùa hè, có những trận lá mùa thu lìa cành, và có những trận mưa tuyết mùa đông vương vào gót giày. Bởi vì sống hoan hỷ với hư vỡ là tự hoàn thiện chính mình, hòa hài làm bạn với hư vỡ là sống với sự thật, và cảm nhận toàn thân tâm trong hư vỡ từng khoảnh khắc là hòa lẫn vào cái đẹp của vũ trụ. Và sống với chân, thiện, mỹ như thế tất nhiên sẽ đón nhận được cái chết bình an.
Mỗi 30 tháng 4 là mỗi năm xa hơn ngày đó, 1975, thêm một bước nữa xa hơn, đi vào dĩ vãng. Hầu hết những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến trước 75, nay đã vắng mặt. Non nửa thế kỷ rồi còn gì. Khi không còn ai nữa, không hiểu những thế hệ trẻ tha hương sẽ nhớ gì? Một thoáng hơi cay? Có khi nào bạn đọc ngồi một mình chợt hát lên bài quốc ca, rồi đứng dậy, nghiêm chỉnh chào bức tường, thằng cháu nhỏ thấy được, cười hí hí. Ông ngoại mát rồi. Trí tưởng tượng của người thật kỳ diệu. Rượu cũng kỳ diệu không kém. Nửa chai vơi đi, lơ mơ chiến sĩ trở về thời đó. Lạ lùng thay, quá khứ dù kinh hoàng, khốn khổ cách mấy, khi nhớ lại, có gì đó đã đổi thay, dường như một cảm giác đẹp phủ lên như tấm màn mỏng, che phía sau một thiếu phụ trẻ đang khóc chồng. Cô có mái tóc màu nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, rủ xuống che nửa mặt. Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chỉ làm đất trời thêm chán nản. Để tôi hát cho em nghe, ngày đó, chúng tôi, những người lính rất trẻ.
Ngày 30 tháng 4 năm nay, 2024, đánh dấu 49 năm ngày Sài Gòn thất thủ vào tay cộng sản Bắc Việt (30 tháng 4 năm 1975). Biến cố này đã mở ra một tương lai đen tối cho dân tộc Việt Nam mà một trong những hệ lụy thảm khốc nhất là hàng triệu đồng bào đã bỏ nước ra đi tìm tự do, trong đó có khoảng hơn 400,000 người chết thảm giữa lòng biển cả. Cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài trong 20 năm đã khiến cho hơn 950,000 bộ đội và thường dân miền Bắc chết và khoảng 600,000 lính cộng sản bị thương. Trong khi đó, có khoảng hơn 700,000 thường dân và binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa thiệt mạng, cùng với 1,170,000 lính VNCH bị thương. Phía Hoa Kỳ có 58,281 binh sĩ tử thương và 303,644 lính bị thương. Đó là chưa kể số thương vong của binh sĩ các nước tham chiến ở hai miền Nam-Bắc, theo www.en.wikipedia.org.
Thế giới đang bùng nổ nhiều cuộc chiến tranh, và đang ngún lửa ở nhiều nơi khác: Trung Đông, Ukraine, Miến Điện, Đài Loan, Biển Đông… Một thời Việt Nam cũng đã trải qua nhiều cuộc binh lửa. Khi đọc kỹ Tam tạng Kinh điển, chúng ta cũng sẽ thấy có những cuộc chiến. Bản thân Đức Phật khi mới lớn cũng học kỹ thuật kiếm cung. Trong nhiều kiếp quá khứ, Đức Phật, khi còn ở cương vị Bồ Tát, cũng đã từng ra trận. Nhiều hình ảnh ẩn dụ trong kinh điển cũng cho thấy dấu tích chiến tranh: ngựa chiến, voi chiến, áo giáp, mũi tên… Và rồi tận cùng, Đức Phật nói trong Kinh SN45.7 rằng chiến thắng vinh quang nhất chính là nhiếp phục tham, sân, si – nơi đó chính là Niết Bàn. Đó là mặt trận lớn nhất, gian nan nhất.
Vào ngày 6 tháng 12, 2023, nhà thơ, nhà văn, giáo sư văn học và nhà hoạt động xã hội được yêu mến người Palestine Refaat Alareer đã thiệt mạng trong một cuộc không kích từ Israel cùng với người anh, em gái và bốn đứa con của họ. Trong tuần để tang kể từ đó, những lời tri ân dành cho cuộc đời, sự nghiệp viết lách và các hoạt động nghệ thuật tích cực của Alareer đã tràn ngập khắp nơi trên thế giới. Nhiều lời tri ân được đăng cùng với bài thơ cuối cùng “Nếu tôi phải chết” được ông đăng trên Twitter của mình vào ngày 1 tháng 11 năm 2023. Cho đến nay, bài thơ chia tay như một điềm báo đau lòng của Alareer hiện đã được dịch sang hơn 40 thứ tiếng; được đọc trên các sân khấu thế giới và được viết trên các bức tường sân ga tàu điện; được in trên các biểu ngữ, bảng hiệu, cờ và diều, được giương cao trong các cuộc biểu tình đòi ngưng bắn trên khắp thế giới.
Nhà xuất bản của Ocean Vương trên Marketplace cũng như Ocean Vương trên Instagram của mình đã thông báo về cuốn tiểu thuyết mới sẽ được xuất bản vào tháng 6 năm 2025, Emperor of Gladness. “Emperor of Gladness” là cuốn tiểu thuyết thứ hai của Ocean Vương, “kể về một năm trong cuộc đời của một thanh niên ương ngạnh ở New England, người tình cờ trở thành người chăm sóc cho một góa phụ 82 tuổi bị mất trí nhớ, tạo nên câu chuyện về tình bạn. sự mất mát và mức độ chúng ta sẵn sàng mạo hiểm để đòi hỏi một trong những ân huệ quý giá nhất của cuộc đời: cơ hội thứ hai.”
Tuyển tập “9 Khuôn Mặt: 9 Phong Khí Văn Chương” của Bùi Vĩnh Phúc là những trang sách phê bình văn học độc đáo, nơi đây 9 người cầm bút nổi tiếng của Miền Nam – Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên – được chiếu rọi trên trang giấy rất mực trân trọng, công phu, phức tạp, và nổi bật là kiểu phê bình văn học rất mực thơ mộng của họ Bùi.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.