Hôm nay,  

Học Cái Xấu

24/11/202300:00:00(Xem: 7423)
huynh le nhat tan-Đêm Thắp Cõi
“Đêm Thắp Cõi”, tranh Huỳnh Lê Nhật Tấn. Huỳnh Lê Nhật Tấn sinh năm 1973, hiện đang làm việc tại Đà Nẵng. Sau hai tập thơ tự do Men da (2009) và Que than (2017), anh xuất bản tập sách mỹ thuật Vết căn nguyên (tháng 3.2022), là chủ đề của cuộc triển lãm tranh sô-lô Vết căn nguyên cùng năm.
 
Người học nhiều mà không áp dụng được, thường cho rằng học vô ích hoặc tổn phí thời giờ, để làm việc khác thích thú hơn. Người học nhiều và áp dụng đạt được hữu ích, thường trở thành kẻ quá tin tưởng vào kiến thức, một loại nô tì cho trí tuệ. Cái giá trị của học chỉ có một nửa nằm ở nơi ứng dụng vào đời sống làm cho bản thân phù hợp với xã hội mà không mất sự bình an trong tâm trí.

Một nửa còn lại để làm gì?

Có một người sống trong thành phố, bận rộn, tranh đấu, xông pha, lăn lộn giữa sự phức tạp như một sinh trùng bị mắc lưới nhện vẫn phải vùng vẫy để sống, để chờ ngày bị ăn thịt. Một hôm, ông ta đi du lịch, thấy một phong cảnh đẹp đến mức lặng người, cảm thấy siêu thoát, nhận ra đạo lý của mục tiêu tại sao con người tồn tại. Nhưng vẫn phải trở về phố cũ, y như Lưu Nguyễn phải trở về làng cũ vì những lý do chính xác, vì lẽ phải của những bổn phận làm người. Ông vẽ lại phong cảnh đó trên một vách tường lớn. Mỗi khi đời giông bão, mỗi khi hồn âm u, mỗi khi trí khổ não, ông đến trước bức tranh, nhìn ngắm, ngẫm nghĩ để tìm thấy sự thanh thản, sở hữu cảm giác bình an.

Ông nghe được tiếng hát “chiều nay vang lừng trên sóng.” Ông thấy được “Âm ba thoáng rung cánh đào rơi. Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời.” Hồn ông “lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan.” Những giờ phút tĩnh lặng đó, tâm trí ông “Đèn soi trăng êm nhạc lắng tiếng quên … là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi…” Ông đã học được một điều lớn nhất trong đời: Bình an không ở đâu xa, nhưng không thấy thì không biết. Không học thì không hiểu. Câu truyện rất ngắn này đưa đến kết luận, sống trong một cuộc đời đầy nỗi niềm khó hiểu, quá nhiều những thứ phi lý, giả tạo, giả hình, mà vẫn được ca ngợi; sống trong một thời đại mà “nói dối” được  chấp nhận cao hơn “nói thật.” Người nói dối luôn miệng được xem là anh hùng … sống kinh ngạc kinh sợ như vậy, nếu không ra sức học, làm sao tìm thấy bình an thật sự trong trái tim?
Nhưng học cái gì? Và trước hết, học là gì?

Con Vịt Xám.

Thời buổi này mà nói chuyện học như đi đến trường, như nghe thầy giảng dạy, thì chán chết.

Thực tế, học trường học người như đi theo ánh đèn do có kẻ soi đường đi trước, mình theo sau. Rồi một hôm, đèn hết điện, hoặc kẻ soi đường vấp té, hoặc kẻ ấy biến mất vì nhiều lý do bí ẩn, người đi theo, cả đám theo sau, bơ vơ, thất lạc, trở về trong bóng tối. Sợ hãi gấp đôi, thất vọng gấp ba, cuồng loạn gấp bốn vì đã quen ánh sáng của kẻ dẫn đường.

Học, hay nhất, thâm nhất, là học mình. Học bản thân là tự thắp đèn mà đi. Bản thân còn, đèn sáng. Bản thân mất, đèn tắt. Đã mất rồi, cần gì đèn? Không có gì quí hơn đèn của mình, mình tự dùng. Nếu cả gia đình, vợ chồng con cháu cùng thắp đèn đi chung, thì hay biết mấy! Mỗi đoạn đường được đi chung với nhau trong ánh sáng là một thứ cao cả, huyền diệu hơn kỷ niệm, mà “những khi chiều tà trăng lên, tiếng ca còn rền trên cõi tiên…”(*)

Học khởi sự bằng quan sát. Nhìn, nghe, ngửi, sờ cảm một cách chi tiết và thận trọng để ghi nhận. Từ đó, nhận thức bắt đầu đào sâu, mở rộng. Trong giai đoạn này, những ai có khả năng “siêu nhận thức” cao, sẽ tự nhiên cảm nhận bất ngờ, sâu xa, sáng suốt, gần giống như giác quan thứ sáu thấy trước, thấy xuyên qua. Đồng thời với sự cảm nhận là suy nghĩ và luận lý. Cứ lắng nghe tâm trí liên tục hỏi tại sao? Rồi nó tự trả lời. Rồi nó tự phản biện. Rồi nó tự kết luận. Rồi tự nó không vừa ý. Rồi tự nó hỏi lại. Vân vân. Quá trình này là “bắt đầu học”. Sau đó, muốn tìm hiểu thêm, phải so sánh cái biết, cái sở kiến, sở nghiệm của mình với kiến thức của người khác, của sách vở, của thiên nhiên, của cái kinh nghiệm tự nhiên. Khi so sánh sẽ mang theo nhiều câu hỏi và đối đáp. Những thắc mắc trở đi trở lại. Đôi khi, tưởng như đã biết, rồi gặp phải hoàn cảnh, mới rõ, mình chưa biết hết. Quá trình này là “học.” Học theo lề lối này sẽ không bao giờ hết, nhưng người học trò của bản thân mỗi ngày mỗi cao lớn, khỏe mạnh, sáng rạng, đẹp hơn.
Đọc sách để học là quan sát ngôn ngữ và ý tưởng của tác giả. Nhìn, nghe, ngửi, sờ, cảm, nhận thức, siêu nhận thức… không phải chỉ lật trang và vu vơ với những câu truyện kể hài hước hoặc chảy nước mắt. Chúng ta học được gì khi đọc, khi nghe những thói xấu của người Việt trong nước và người Việt hải ngoại? Chúng ta học hay đang cười chế giễu, khinh khi, bực bội, chán ghét? Học được gì nơi nước mắm? Rau muống? Củ mì? Giá sống? Phở, bún bò, gỏi cuốn, bánh mì, mì quảng, nem chua, bún chả Hà Nội, bánh bèo, cơm cháy? So sánh cái biết này với cái biết về những thói xấu người Tàu, thói xấu người Xì, thói xấu người Châu phi, thói xấu người Mỹ? Ông James Elkins, trong bài viết “What Painting Is”, nói rằng, xấu cũng có giá trị như đẹp. Ý của ông là tùy cách hiểu về cái xấu cái đẹp mà mỗi người sẽ cảm nhận giá trị của chất thẩm mỹ. Thẩm mỹ bao gồm cả đẹp lẫn xấu. Điều này đúng nhãn tiền, nếu không, những anh xấu trai làm sao lấy vợ?

Huỳnh Lê Nhật Tấn - Bóng Về
Bóng Về” - Tranh Huỳnh Lê Nhật Tấn.


“Tôi là người xấu trai mà có vợ đẹp nên hiểu thấm thía cái xấu. Xấu không hẳn là ngược lại với đẹp, cũng không phải là mặt sau lưng. Xấu là con vịt xám làm cho đàn vịt lông trắng xấu hổ. Xám lẻ loi, mặc cảm, buồn bã, thất vọng, chán cả bản thân. Rồi một hôm, lạ lùng, nó rụng hết lông xám. Lạ lùng, mọc lên lông trắng. Lạ lùng, bay lên cao. Nó trở thành thiên nga. Bí quyết ở đây là rụng hết lông xám. Nếu không rụng hết lông xám để mọc lông trắng, thì con vịt xám kia mãi mãi là vịt xiêm. Muốn rụng hết lông xám, mọc lông trắng, tập cất cánh, rồi bay cao, cần phải học.

Tìm đến những mẫu chuyện kể lể, thêm bớt, mỉa mai, thói hư tật xấu của người Việt hoặc bất cứ người gì, chỉ để giải trí và phát tán trên mạng, chia vui, sao mà dư thời giờ quá. Không phải, việc này cười vui, không hãm hại gì, nhưng NHỚ kèm theo một chút rụng lông xám, mọc lông trắng, cho cái xấu có cơ hội trở mình. Bay cao.

Hiểu Cái Xấu.

Người ta thường quí trọng cái đẹp, ít ai quí trọng cái xấu. Tìm hiểu cái xấu giống như tìm hiểu bệnh tật để có thể chữa trị hoặc tái thiết kế nó cho bớt xấu hoặc đẹp hơn.

Một trong một số điều gây hãnh diện khi trưởng thành là mua được căn nhà. Cái cảm giác đầu tiên khi làm chủ một căn nhà dù vay, dù nợ, thật sự sung sướng, bay bổng, hả dạ làm sao nói cho cạn. Lần đầu tiên khi làm chủ một chiếc xe cũ, tôi đã chờ vợ ngủ say, để lén chui vào xe nằm băng sau, ngủ chập chờn, vì vừa chớm sáng, phải nhanh chóng leo vào giường như chưa hề đi đâu. Huống chi là làm chủ một căn nhà, dù nhỏ vẫn lớn hơn chiếc xe cả chục lần.

Nhà cũ, sau một thời gian, cũ thêm. Bắt đầu hư, phải sửa. Bấy giờ, mới biết. Nếu trước đây biết tìm kiếm, phát giác ra những chỗ sắp hư, mà điều chỉnh, mà cải thiện, thì bớt tốn tiền. Đôi khi, gọi thợ đến sửa, tiền mất tật mang, gây thêm nhiều bệnh khác. Nhà nào không cũ? Nhà nào không hư? Tâm nào không cũ? Trí nào không hư? Nhà nào không có chỗ xấu? Người nào hoàn toàn đẹp? Nếu biết sớm sửa chữa, thì đỡ bớt hao tốn tuổi.

Học không phải để giết cái xấu, không phải để cầm tù cái xấu, mà để cái xấu khởi sự bớt xấu, rồi từ từ, hết xấu, rồi đột nhiên đẹp.

Hiểu cái xấu, trước tiên, là hiểu nó luôn luôn hiện diện trong nội tâm và ngoài đời sống. Không ai có thể hủy diệt hết cái xấu, kể cả Thượng Đế. Vì nếu không có xấu, làm sao ai biết đẹp là gì.

Không thể tiêu diệt nó, có nghĩa, phải sống chung với nó. Nếu phải sống chung thì hòa bình tốt hơn chiến tranh. Sống chung rồi liệu cơm gắp mắm. Từ từ “đẹp hóa” chất xấu, chất dơ. Mợ tôi, một phụ nữ nhan sắc mặn mà, quí phái, hấp dẫn một quân nhân thời chiến và mợ trở thành bà đại úy. Ông đại úy, thời ly loạn, nghĩa là di chuyển, ăn nhậu, dân chơi vũ trường. Một hôm, một cô vũ nữ, nhan sắc mật ngọt, ngôn ngữ mật ong, trở thành bà đại úy nhỏ. Để tránh cảnh một nhà hai quê, bà lớn năn nỉ chồng mang bà nhỏ về ở chung. Chị em chia nhau nâng khăn sửa túi. Cùng vui mà đỡ tốn kém. Được lời như cởi tấm lòng. Ông đại úy đưa vợ nhỏ về quê. Trồng trầu thì phải khai mương, làm trai hai vợ phải thương cho đều. Ông đại úy bấy giờ tốn tiền gấp đôi. Khi mua phải mua hai cái giống nhau: hai áo dài, hai xách tay, hai đôi giày, hai hộp bịt, hai son môi, hai má hồng, hai vân vân, và tốn sức gấp đôi. Vậy đó, vui quá chừng. Vui gần hai năm, một hôm, bà nhỏ tự động bỏ đi, không ai biết lý do.

Giả thuyết, bà lớn to nhỏ, chị chị em em, khiến bà nhỏ cảm thấy xấu hổ trước lòng tốt của chị, nên tự mình giải quyết lấp mương, khỏi trồng trầu.
Giả thuyết, bà nhỏ cảm thấy chán nản, chán ngán chuyện phụ nữ liên đới nên đi tìm độc lập tự do.

Giả thuyết, bà nhỏ gặp một người tình khác. Chuyện này có nghi vấn, vì cho đến phút cuối cùng, bà nhỏ vẫn mặn nồng với phiên bản phim tập không có dấu hiệu chấm dứt.

Giả thuyết, bà nhỏ đã học được thiện tâm.

Tôi chứng kiến chuyện tình bài ba lá nhưng không biết trái tim nằm ở lá bài nào. Nhưng tôi tin rằng, thiện tâm thường phát xuất từ một thiện tâm khác. Sự tốt đẹp cũng có khả năng lây lan như sự xấu, nhưng sự tốt lây lan kèm theo nỗi tự hào và lòng thỏa mãn. Cái tốt của bà lớn tạo ra cái tốt của bà nhỏ. Nói một cách khác, cái tốt làm cho cái xấu thay đổi. Lời nói này không phải là lời khuyên đạo đức, hoặc giáo lý. Đây là lời ghi nhận từ kinh nghiệm.

Hiểu cái xấu là hiểu rằng: trong cái xấu luôn luôn có cái tốt, dù rất nhỏ, dù rất mơ hồ. Vì vậy, khi cái nhỏ xíu này, cái mơ hồ này được đánh thức, bồi dưỡng, phát huy, nó sẽ xâm chiếm dần cái xấu và một hôm nó mọc lông trắng.

Hiểu cái xấu là hiểu cái đẹp, nếu không được chăm sóc, cải thiện, cái đẹp sẽ trở thành xấu, như nhan sắc phụ nữ, như tài hoa của nghệ sĩ.

Hiểu cái xấu là hiểu cái học. Cái này gần gũi, thực tế, có khả năng thay đổi cái xấu.

Sau cái hiểu là cái học.

Cái học chính xác và đúng đắn nhất là học từ cái xấu của mình. Cái xấu ẩn trốn, giả dạng, hóa trang trong nội tâm.

Sở dĩ chúng nó núp lén, trốn chạy, vì chúng nó cảm thấy xấu. Đẹp khoe, xấu che. Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra, nếu chúng nó tự biến thành cái đẹp?
Cần gì phải hỏi, chúng sẽ tự động nhảy ra, đứng trước nhân gian, la lớn: “Chúng tôi đã hiểu cái xấu.”
 
Làm Người.
HLNT Lê Quý Nghi collection

Bay Ra”, Tranh Huỳnh Lê Nhật Tấn – Collection của Lê Quý Nghi


Chúng ta vừa sơ thảo một nửa giá trị của cái học, còn một nửa còn lại để làm gì?

Một nửa học đầu tiên có giá trị như chiếc máy đều hòa không khí. Mùa lạnh, máy phát hơi nóng. Mùa nóng, máy phát hơi lạnh. Giữ không khí và nhiệt độ trong nhà luôn thoải mái cho bản thân, gia đình và những người thân cận. Dù thành công tiền tài, danh vọng, ái tình mà không thoải mái, không bình an, thì đời sống đó chỉ để khoe trương. Giá trị học này gần giống như ý nghĩa “tu thân, tề gia,” mà Khổng Tử đã truyền đạt.

Nửa cái học còn lại vượt lên mục tiêu phục vụ bản thân và một số người giới hạn. Nó sâu rộng hơn, cao siêu hơn, đạo lý hơn, và phẩm chất làm người hơn. Vì vậy, nó cao hơn “trị quốc, bình thiên hạ.”
Làm người, trên căn bản, chính yếu là làm hai việc:

Việc thứ nhất là truyền giống để nhân loại được tồn tại. Bản năng này sinh vật nào cũng có. Nó là bản sắc của sự sống. Tuy nhiên, thông minh hơn con vật, con người lợi dụng việc sinh đẻ biến thành thú vui vẻ. Càng văn minh càng lộng hành. Không có loài vật khôn ngoan nào sau con người mà biết khai thác thú vui vẻ một cách vô tận.

Việc thứ hai là làm cho đời sống càng ngày càng tốt đẹp hơn một cách an toàn. Quá trình này chứng minh trong lịch sử văn minh của nhân loại. Nếu không, con người giờ đây chỉ là con thú rụng hết lông.

Nhưng làm sao có lịch sử văn minh? Vì giá trị của nửa cái học còn lại. Nhìn từ bên ngoài, có thể gọi là cái học để phục vụ con người. Nhìn từ bên trong, chính là cái học của ý muốn siêu phàm. (**)

Cái học này không liên quan mấy đến bằng cấp, tiền tài hoặc danh tiếng. Rất nhiều tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư, luật sư, vân vân sư, chỉ cắm cúi sống theo cách sống “không làm gì hết.” Chỉ “ta tắm ao ta, dù mập dù ốm, ao nhà vẫn hơn.”

Nhưng một số người nhờ học cái giá trị thứ nhất mà hiểu được giá trị thứ hai. Họ hăng say, miệt mài làm những công việc trong khi nhiều người xung quanh cho là vô ích. “Kệ mẹ mấy thằng điên. Không lo tình, tiền, danh vọng, mà lo lý tưởng.” Khôi hài thay, những thứ mà đám đông hưởng thụ tình ái, tiền bạc, danh vọng, trí khôn, vân vân, lại đến từ những lý tưởng mà họ xem thường.

Ở một góc đường, tôi đã từng gặp một người điên. Bùi Giáng đưa cho tôi cành hoa mà trắng ngà đang bắt đầu héo. Ông nói, lượm ở nghĩa địa. Đóa hoa đó, tôi giữ mãi hơn 50 năm, rụng hết, chỉ còn:

“Điên chơi cho bớt điên đầu
Điên đầu cho bớt điên rầu rĩ chơi.” (**)
 
Ghi:
(*) Thiên Thai, ca khúc của Văn Cao.
(**) Quan điểm này sẽ được trình bày trong một bài viết khác. Ý muốn siêu phàm có hình ảnh ý chí siêu nhân của Nietzsche.
(**) Mây Chiều Nay, thơ Bùi Giáng.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán. Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu. Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.
Thế giới sẽ tuyệt vời hơn, nếu những cuộc chiến tranh bỗng nhiên biến mất, để rồi những bất đồng giữa người với người sẽ giảm nhiệt để chỉ còn là những cuộc phản kháng không làm hại ai. Lúc đó, bạn hãy hình dung, cõi này sẽ không cần tới súng đạn hay phi cơ, tàu chiến. Lúc đó, vũ khí phản kháng chỉ còn là thơ, tượng, hình vẽ... Người ta sẽ kể chuyện tiếu lâm, sẽ vẽ tranh hí họa... để chọc quê nhau, giễu cợt nhau. Lúc đó, những tờ giấy trắng và những bức tường sẽ là vũ khí tiềm năng, khi chúng ta viết chữ lên giấy và vẽ lên các bức tường. Đó là những bức tường biết nói. Các họa sĩ đã biến khu phố lịch sử Bo-Kaap của Cape Town thành một cuộc triển lãm nghệ thuật công cộng nhằm thể hiện tình đoàn kết với người Palestine ở Gaza. Dự án mang tên "Tranh tường cho Gaza" (Murals for Gaza) được khởi động vào tháng 12 năm 2023 bởi cư dân địa phương Obeidullah Gierdien.
Từ nhỏ, mẹ tôi đã đọc cho tôi nghe truyện Trương Chi và Mỵ Nương nên tôi biết Trương Chi thổi sáo rất hay. Lớn lên, khi học trung học đệ nhất cấp, tôi nghe được ca khúc “Trương Chi” của nhạc sĩ Văn Cao, tronng bài đó, có câu “Anh Trương Chi, tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung…” tôi mới biết Trương Chi không thổi sáo mà hát trên sông. Vậy thì tiếng sáo hoặc tiếng ca đã làm Mỵ Nương say đắm? Văn Cao nổi bật với hai ca khúc “Thiên Thai” và “Trương Chi.” Cả hai đều được viết trong dạng truyện với kịch tính. “Trương Chi” là ca khúc có hình thức vừa, nghĩa là có chiều dài giữa ca khúc bình thường và trường ca. Tại sao có kịch tính?
Phạm Duy là một trong số nhạc sĩ đặt lời thành công từ bình dân đến cao kỳ cho ca khúc do ông sáng tác, do ông dịch hoặc viết lời cho nhạc ngoại quốc. Trình độ nghệ thuật ngôn ngữ và khả năng nhạy cảm với ngôn từ của ông có khi còn cao hơn những người làm thơ chỉ để làm thơ. Phạm Duy là người sáng tác lời hay, có ý nghĩa và quan trọng là thể hiện được cảm xúc trong giai điệu và tinh thần của ca khúc. “Nghìn Trùng Xa cách,” một ca khúc tôi cho là hoàn tất về nhạc lẫn ca từ. Có thể xác nhận, đây là một bài thơ tình đầy đủ cảm xúc và trí tuệ, được xây dựng trên ba đoạn, theo cách văn học, gọi là ba mảnh. Không theo cấu trúc của ca khúc, ví dụ như A,B,A’ mà theo tâm sự ký ức và ý nghĩ, ba mảnh rời tạo nên tổng thể.
Phế tích của ảo ảnh, nhan đề một tập thơ của nhà thơ Trịnh Y Thư, do Nhà xuất bản Văn Học Press ấn hành năm 2017 tại Hoa Kỳ. Một nhan đề chất chứa không biết mấy lớp không gian và thời gian, không biết mấy thức của cảm xúc; nó như một sợi chỉ mà khi kéo ra chỉ thấy vô tận. Điều gì làm hoang mang và quyến rũ tôi đến vậy? Chữ “Phế tích” tác giả dùng cho “Ảo ảnh” khiến cảm xúc cuốn theo chiều hút của vực thẳm, trong đó nỗi hoài niệm treo lơ lửng trên dốc thời gian, lịch sử và thân phận, như một thách thức...
Chiều thứ Bảy 23 tháng 8 sắp tới đây, chúng ta sẽ được xem màn trình diễn Hợp Xướng "Chinh Phụ Ngâm" lần đầu tiên ở Hoa Kỳ. Nhà hát Rose Center Theater chuyên dùng cho các buổi hoà nhạc hay nhạc kịch ở Quận Cam sẽ là nơi vở hợp xướng trang trọng này được diễn ra. Cùng với màn hợp xướng, Đoàn Văn Nghệ Lạc Hồng sẽ giới thiệu Chương Trình Ca Vũ Nhạc Kỷ Niệm 50 năm viễn xứ "Cánh cò xa xứ" tại đây. Rất phấn khởi với tin tức này, tôi lại có cơ duyên quen biết và tiếp xúc với Nhạc Sĩ Vũ Đình Ân, tôi tìm gặp ông để tìm hiểu thêm về vở hợp xướng "Chinh Phụ Ngâm".
TÔI LÀ AI? Dường như mãi mãi là một câu hỏi cho cuộc sống của con người tại thế. Và câu trả lời của nó, hẳn nhiên, không thể và không chỉ là một cụm từ, cho dù có thể sâu xa đến đâu. Phùng Thanh Hà, một phụ nữ tôi quen biết, tuy cùng ở một thành phố nhưng phải đánh một vòng đến Thuỵ Sĩ, qua một người bạn (đạo diễn Síu Phạm), tôi mới gặp được cô ấy. Tôi kể điều này để muốn nói rằng, tương ngộ là tuỳ duyên, không chỉ trong các mối quan hệ mà còn là những vấn đề liên quan, những cơ sự sắc tướng hoặc vô sắc tướng nơi mỗi cá nhân.
Độc giả Việt Báo hẳn đã quen với Bùi Chát – nhà thơ – qua nhiều thi phẩm đặc sắc từng đăng tải trên trang báo này suốt bao năm qua. Tuần rồi, Việt Báo vừa giới thiệu tập thơ mới Chúng Ta Đang Trôi Đi Đâu với bài viết của Nguyễn Đức Tùng. Hôm nay, mời bạn đọc gặp lại một Bùi Chát - người họa sĩ. Anh đang có cuộc triển lãm tranh mang tên “đang trôi” khai mạc từ hôm nay và kéo dài đến hết ngày 24 tháng 7, tại Sài Gòn – một dịp hiếm quý dành cho các độc giả Việt Báo hiện đang có mặt tại Tân Định.
Nay ăn nhờ ở đậu nơi đất nước người, lấy chi mà “những điều trông thấy” kiểu như ngày xưa ấy. Nhưng thấy ý kiến của “bà hàng xóm” là một giải pháp khả dĩ, tôi nghĩ phải làm sao cho ra một bài viết vui vui thích hợp với xã hội đang sống. Trăn trở mãi rồi cũng eureka. Tôi đặt cái khung cho những bài mà tôi gọi là “phiếm”. Thứ nhất, đề tài bám vào những chuyện thời sự, nhất là những chuyện có liên quan nhiều tới cộng đồng người Việt sinh sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Thứ hai, phải viết với lối văn vui vui, tếu tếu nhưng vẫn giữ chừng mực. Thứ ba, phải có hơi hướm văn chương bằng cách dùng những giai thoại hoặc/và những chuyện thực nhưng vui khi tiếp xúc với các bạn văn.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.