Hôm nay,  

Bài Học Từ Lịch Sử: Luật Cấm Báng Bổ Tôn Giáo Và Cuộc Đấu Tranh Cho Tự Do Tôn Giáo Ở Hoa Kỳ

01/11/202400:00:00(Xem: 1638)

luat cam bang bo ton giao
Lịch sử các luật cấm báng bổ tôn giáo ở Hoa Kỳ phản ánh một cuộc đấu tranh phức tạp cho quyền tự do tôn giáo và tự do ngôn luận của đất nước. (Nguồn: pixabay.com)

Hiện nay, có khoảng 79 quốc gia trên thế giới vẫn đang thi hành các luật cấm báng bổ tôn giáo (blasphemy laws). Đặc biệt, ở một số quốc gia như Afghanistan, Brunei, Iran, Nigeria, Pakistan và Ả Rập Saudi, vi phạm các luật này có thể bị xử án tử hình.
 
Hoa Kỳ dù không thuộc nhóm các quốc gia này, nhưng cũng có một lịch sử dài về các luật cấm báng bổ tôn giáo. Nhiều thuộc địa của Hoa Kỳ đã ban hành những quy định cấm báng bổ tôn giáo, và về sau chúng trở thành luật của tiểu bang. Mãi đến năm 1952, Tối Cao Pháp Viện (TCPV) Hoa Kỳ mới phán quyết rằng những lời lẽ xúc phạm, bất kính đối với một tôn giáo được coi là quyền tự do ngôn luận và được bảo vệ theo Hiến pháp. Tuy nhiên, quyền này không phải lúc nào cũng được bảo vệ một cách triệt để.
 
Là một học giả về tôn giáo và chính trị, Giảng sư Kristina Lee tại Đại học South Dakota tin rằng lịch sử các luật cấm báng bổ tôn giáo ở Hoa Kỳ phản ánh cuộc đấu tranh phức tạp cho quyền tự do tôn giáo và tự do ngôn luận.
 
Những luật cấm báng bổ tôn giáo đầu tiên ở Hoa Kỳ
 
Trong thời kỳ thuộc địa ở Hoa Kỳ, các thuộc địa thường ban hành luật bảo vệ người Kitô giáo trong việc theo đạo, tham gia các nghi lễ, hoạt động liên quan đến tôn giáo của mình. Tuy nhiên, những luật này lại không áp dụng cho những người không theo Kitô giáo.
 
Chẳng hạn, Đạo luật Khoan dung (Toleration Act) năm 1649 là văn bản pháp lý đầu tiên của Maryland đề cập đến “quyền tự do theo đạo,” được tạo ra để bảo vệ các tín đồ Kitô giáo khỏi bị đàn áp bởi chính quyền. Dù vậy, đạo luật này không áp dụng cho những người không phải Kitô hữu. Trái lại, luật còn quy định rằng bất kỳ ai xúc phạm Thượng Đế, bất kính với Ngài hoặc phủ nhận sự tồn tại của Chúa Giêsu, đều có thể bị kết án tử hình hoặc bị tịch thu tài sản.
 
Năm 1811, Hoa Kỳ chứng kiến một trong những vụ xét xử tội báng bổ tôn giáo nổi tiếng nhất, vụ People v. Ruggles, tại Tòa án cao nhất bang New York. John Ruggles, một cư dân New York, bị kết án 3 tháng tù giam và phạt 500 MK (khoảng 12,000 MK theo giá trị hiện tại) vì đã công khai miệt thị Chúa Giêsu và Đức Mẹ với những lời lẽ xúc phạm.
 
Chánh án James Kent khẳng định rằng mọi người có quyền tự do bày tỏ quan điểm tôn giáo, nhưng nếu đó là những quan điểm ác ý đối với Kitô giáo, thì sẽ bị coi là lạm dụng quyền này. Kent còn nhấn mạnh rằng những lời công kích tương tự đối với các tôn giáo khác như Hồi giáo hay Phật giáo sẽ không bị trừng phạt, vì theo ông, “chúng ta là những người theo Kitô giáo,” không dựa trên các giáo lý của “những kẻ mạo danh” từ các tôn giáo khác.
 
Năm 1824, một thành viên của hội tranh luận ở Pennsylvania bị kết tội báng bổ tôn giáo sau khi tuyên bố rằng “Kinh Thánh chỉ là một câu chuyện hư cấu, đầy mâu thuẫn, có những điều tốt đẹp nhưng cũng đầy rẫy dối trá.” Trong vụ án Updegraph v. Commonwealth, Tòa án cao nhất Pennsylvania đã cho rằng đây là một tuyên bố “thô tục, gây sốc và xúc phạm,” và là tội ác nghiêm trọng, vi phạm đạo đức cộng đồng và gây xáo trộn trật tự xã hội.
 
Vào cuối thế kỷ 19, phong trào tư tưởng tự do (free thought) bắt đầu xuất hiện, thách thức những quan niệm truyền thống về tôn giáo và luật cấm xúc phạm, bất kính đối với tôn giáo. Các nhà lãnh đạo phong trào này công khai chỉ trích Kitô giáo và phản đối các luật thiên vị Kitô hữu. Họ cho rằng các luật cấm xúc phạm tôn giáo và việc bắt buộc đọc Kinh Thánh trong các trường công lập là vi phạm quyền tự do cá nhân.
 
Theo nhà sử học Leigh Eric Schmidt, các diễn giả và nhà văn trong phong trào này thường phải đối mặt với những đe dọa về việc bị buộc tội báng bổ tôn giáo. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, ngay cả trong những trường hợp đã bị kết án, các thẩm phán đã bắt đầu tỏ ra khoan dung hơn.
 
Vào năm 1887, C.B. Reynolds, một cựu mục sư trở thành diễn giả nổi tiếng của phong trào tư tưởng tự do, đã bị kết tội xúc phạm tôn giáo ở New Jersey sau khi công khai nghi ngờ sự tồn tại của Thượng Đế. Nhưng thẩm phán chỉ quyết định phạt ông 25 MK cùng với các loại án phí khác.
 
Lý do vì sao Reynolds được khoan hồng không được nêu rõ; nhà sử học Levy cho rằng có thể thẩm phán lúc bấy giờ không muốn biến Reynolds thành một biểu tượng ‘tử vì đạo’ khiến cho phong trào tư tưởng tự do bùng lên mạnh mẽ hơn.
 
Bất kính với một tôn giáo được coi như quyền tự do ngôn luận
 
Trong những năm 1900, phong trào đòi hỏi quyền bình đẳng tôn giáo và tự do ngôn luận ngày càng phát triển mạnh mẽ, ảnh hưởng đáng kể đến các vụ kiện cáo liên quan đến báng bổ tôn giáo.
 
Chẳng hạn như vào năm 1917, Michael X. Mockus, trước đó từng bị kết tội báng bổ tôn giáo ở Connecticut, đã được tuyên vô tội ở Illinois. Thẩm phán Perry L. Persons cho rằng nhiệm vụ của tòa án không phải là xác định tôn giáo nào là đúng, mà tất cả mọi người phải bình đẳng trước pháp luật, dù đó là “người theo đạo Tin lành, Công giáo, Mặc Môn, Mahammedan, Do Thái, người theo chủ nghĩa tự do, hay vô thần.
 
Năm 1952, khi xét xử vụ Joseph Burstyn, Inc. v. Wilson liên quan đến việc New York thu hồi giấy phép của bộ phim “The Miracle,” TCPV đã phán quyết rằng các tiểu bang không có quyền cấm những bộ phim bị coi là phạm thánh (sacrilegious). Tòa cho rằng điều này sẽ vi phạm nguyên tắc tách biệt Tôn giáo và Nhà nước, và cũng là vi phạm quyền tự do tôn giáo và tự do ngôn luận theo Hiến pháp.
 
Tuy nhiên, ngay cả sau khi TCPV đã ra phán quyết như vậy, nhiều người thỉnh thoảng vẫn bị vướng vào rắc rối pháp lý liên quan đến báng bổ tôn giáo. Nhưng các tòa án về sau đều bác bỏ những cáo buộc kiểu này.
 
Năm 1968, Irving West, một cựu chiến binh 20 tuổi, đã bị buộc tội gây rối trật tự công cộng và vi phạm luật cấm báng bổ tôn giáo của Maryland sau khi anh ta nói với một cảnh sát viên là “Bỏ cái tay trời đánh thánh đâm của ông ra khỏi người tôi” (Get your goddamn hands off me) sau một cuộc ẩu đả. West kháng cáo, và tòa án phán quyết rằng luật cấm báng bổ tôn giáo này vi phạm Tu chính án Thứ nhất (First Amendment) của Hiến pháp Hoa Kỳ.
 
Bất chấp những phán quyết như vậy, vào năm 1977, bang Pennsylvania vẫn ban hành một đạo luật cấm xúc phạm tôn giáo, cấm các công ty, cơ sở kinh doanh sử dụng những tên gọi có tính bất kính, xúc phạm tôn giáo. Mọi sự bắt đầu khi có một ông muốn đặt tên cửa hàng súng của mình là “The God Damn Gun Shop.” Đến năm 2010, Tòa án cao nhất Pennsylvania mới tuyên bố rằng đạo luật này là vi hiến.
 
Dấu hiệu của tự do dân chủ
 
Trong cuốn sách “The Myth of American Religious Freedom,” nhà sử học David Sehat đã nhấn mạnh rằng từ khi Hoa Kỳ lập quốc, đã có nhiều tranh cãi về hình thức và nội dung của quyền tự do tôn giáo. Các luật cấm báng bổ tôn giáo là một phần quan trọng trong những cuộc xung đột này.
 
Nhiều người từng xem các luật này là hợp lý. Một số người cho rằng Kitô giáo cần được bảo vệ và tôn trọng đặc biệt hơn so với các tôn giáo khác. Ngược lại, một số nhà lập quốc như John Adams và Thomas Jefferson lại xem các luật này là vi phạm quyền tự do ngôn luận và tự do tôn giáo được quy định trong Hiến pháp.
 
Gần đây, chủ nghĩa dân tộc Kitô giáo đang trỗi dậy và thu hút sự chú ý của mọi người với những cuộc tấn công vào quyền tự do ngôn luận, chẳng hạn như hàng loạt lệnh cấm sách và hạn chế các cuộc biểu tình. Nếu muốn tránh lặp lại những sai lầm trong quá khứ, người dân Hoa Kỳ cần phải cần rút ra những bài học từ lịch sử đấu tranh bảo vệ quyền tự do tôn giáo và tự do ngôn luận.
 
VB biên dịch 
Nguồn: “What the history of blasphemy laws in the US and the fight for religious freedom can teach us today” được đăng trên trang TheConversation.com.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở Hoa Kỳ, khi nghe đến cụm từ “giáo dục tổng quát,” người ta thường hình dung về những khóa học nhập môn trong các lĩnh vực nghệ thuật, nhân văn, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và toán học. Tùy vào mỗi trường, chương trình này có thể mang những cái tên khác nhau như “chương trình căn bản” (core curriculum) hay “các môn học bắt buộc” (distribution requirements). Ngoài ra, chương trình này đôi khi còn có một tên gọi khác là “giáo dục khai phóng” (liberal education). Hội các trường Cao đẳng và Đại học Hoa Kỳ (American Association of Colleges and Universities, AACU) mô tả đây là chương trình giúp bồi dưỡng “tinh thần trách nhiệm xã hội, cùng với các kỹ năng trí tuệ và thực tiễn vững vàng có thể vận dụng linh hoạt.”
Trong nhiều năm kể từ khi Jeffrey Epstein được phát hiện chết trong phòng giam tại Metropolitan Correctional Center (MCC), New York, giới chức liên bang luôn khẳng định rằng cái chết này là một vụ tự sát. Tuy nhiên, một cuộc điều tra độc lập do CBS News thực hiện đã phơi bày hàng loạt mâu thuẫn giữa các tuyên bố của chính phủ và những gì thực sự hiện ra trong đoạn phim giám sát vừa được công bố.
Cuối mùa Hè năm 1955, Till-Mobley tiễn con trai của bà, Emmett Till 14 tuổi lên một chuyến tàu từ Chicago đến thăm chú và các anh em họ của Emmett ở quê hương Mississippi của bà. Giống như những phụ nữ và đàn ông da đen nói với con cái họ về việc chú ý các điểm dừng giao thông và các cuộc chạm trán khác với cảnh sát, Till-Mobley đã căn dặn Emmett rất kỹ. Bà cho cậu biết cậu đang đi đến một nơi mà an toàn phụ thuộc vào khả năng kiềm chế sự bốc đồng, tính cách không khuất phục của cậu với người da trắng. Linh cảm của người mẹ mang đến trong lòng bà nỗi bất an không giải thích được. Bà đưa cho Emmett chiếc nhẫn bạc của ông Louis Till, cha của cậu. Chiếc nhẫn khắc chữ L.T.
“Đi về Miền Nam, miền hương thơm bông lúa tràn ngập đầy đồng; Đi về Miền Nam, miền xinh tươi đất rộng cùng chung nguồn sống” Và cứ như thế, với tiếng hát trong tâm tưởng, từng đoàn người gồng gánh ra đi. Họ đi về hướng Nam giống như cha ông của mình từ bao nhiêu thế kỷ trước. Bây giờ lại còn một động lực mới và mãnh liệt khác, đó là đi tìm tự do: ‘chúng tôi muốn sống!’, như tên gọi một cuốn phim nổi tiếng của đồng bào di cư sau này. Cuối tháng 6, dù hiệp định đình chiến chưa ký kết nhưng quân đội Pháp và Quốc gia đã rút lui khỏi nhiều địa điểm ở đồng bằng Bắc Việt nên nhiều người bắt đầu di tản về các đô thị, đặc biệt là Hải phòng.
Cõi này ngày càng bất an! Tình trạng hâm nóng toàn cầu đã dẫn tới nhiều thảm họa như bão lụt, hạn hán, mực nước biển dâng cao, dịch bệnh, mất mùa, đói khát lầm than. Chiến tranh thù hận ngày càng hung bạo đã làm cho hàng triệu người thương vong, nhà cửa ruộng vườn bị phá hoại. Các chế độ độc tài, quân phiệt, và nạn kỳ thị sắc tộc đã thẳng tay đàn áp dân lành. Tất cả những điều trên đã dẫn đến thảm trạng bỏ nước đi của hàng triệu người trên thế giới! Theo Population Division of the United Nations Department of Economic and Social Affairs (UNDESA), năm 2024 có tới 304 triệu di dân trên toàn cầu, là một con số tăng gần gấp đôi kể từ năm 1990, khi lúc đó có 154 triệu di dân trên thế giới. Đó là 3.7% tổng dân số địa cầu. Theo Cơ Quan Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, tính tới cuối năm 2024, có 43.7 triệu người tị nạn, gồm 6 triệu người tị nạn từ Palestine và 8 triệu người xin được nhận vào quy chế tị nạn trên toàn cầu.
Trong số người Việt, thế hệ thứ nhất có 29% học xong cử nhân hay cao hơn. Thế hệ sinh ra lớn lên tại Hoa Kỳ con số này là 59%. Như thế có thể lý giải là phụ huynh không có cơ hội học cao nhưng khuyến khích con theo đuổi đường học vấn cho tương lai.
Khi các chuyên gia quan ngại về mối quan hệ của giới trẻ với thông tin trực tuyến, họ thường cho rằng giới trẻ tuổi không hiểu biết về phương tiện truyền thông như những người lớn tuổi hơn. Nhưng công trình nghiên cứu dân tộc học do Jigsaw – cơ sở công nghệ của Google - thực hiện lại tiết lộ một thực tế phức tạp và tinh tế hơn: Thế hệ Z, thường được hiểu là những người sinh sau năm 1997 và trước năm 2012, đã phát triển các chiến lược khác biệt rõ rệt để đánh giá thông tin trực tuyến, những chiến lược sẽ khiến bất kỳ ai trên 30 tuổi trở nên bối rối. Họ không tiếp thu thông tin như những người lớn tuổi hơn bằng cách đầu tiên đọc tiêu đề và sau đó là nội dung.
Người Việt Nam không ai xa lạ với từ ‘Gulag’ - trại tù lao động khổ sai khét tiếng của Liên Bang Xô Viết. Ước tính trong khoảng hai thập niên từ 1930-1953, nơi đây giam giữ khoảng 4 triệu tù nhân; 1.5 triệu đã chết trong tù hay sau khi được thả một thời gian ngắn. Gulag từng được xem là địa ngục trần gian, là biểu tượng cho sự tàn bạo của nhà tù cộng sản. Trong những ngày cuối tháng 6, khi mà người dân Mỹ chuẩn bị pháo hoa đón mừng Lễ Độc Lập, cái tên Gulag được sử dụng khi nói đến một nhà tù mới được hình thành ở Florida. Nhà tù này có tên gọi là Alligator Alcatraz. Trong một bài viết được đăng trên trang mạng Amrican Community Media ngày 30/06/2025, nhà báo Laszlo Bartus đã cảnh báo rằng nó sẽ là nhà tù vô nhân đạo nhất thế giới.
Trong hơn bảy mươi năm qua, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iran đã trải qua nhiều bước ngoặt – từ một liên minh chiến lược thời Chiến tranh Lạnh, đến một trong những nước đối đầu gay gắt và kéo dài nhất của thời đại hậu thuộc địa. Bản tóm lược dưới đây ghi lại những cột mốc chính từ năm 1953 đến 2025, nhằm cung cấp một cái nhìn toàn diện về diễn biến phức tạp của quan hệ Hoa Kỳ–Iran trong bối cảnh biến động địa chính trị toàn cầu.
Tháng 5 vừa qua, một chuyến bay từ Johannesburg, Nam Phi đã đáp xuống phi trường Quốc tế Dulles, Hoa Kỳ. Trên phi cơ là khoảng 50 công dân Nam Phi da trắng thuộc cộng đồng Afrikaner. Những người này cho biết sinh kế của họ đang bị đe dọa nghiêm trọng do xã hội ngày càng “kỳ thị người da trắng.” Cách mô tả tình hình Nam Phi như vậy ngay lập tức nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ từ các nhà bình luận cánh hữu có ảnh hưởng ở Mỹ như Tucker Carlson, Charlie Kirk, và Stephen Miller.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.