Hôm nay,  

Tổng thống Jimmy Carter: Đại ân nhân của thuyền nhân vượt biển

31/12/202414:04:00(Xem: 2860)
BuiVanPhu_2024_1229_TongThongJimmyCarter_H01_PhongThuKyNiem
Phong thư kỷ niệm ngày nhậm chức của Tổng thống Jimmy Carter (Ảnh: Bùi Văn Phú)

 

 

Cựu Tổng thống Jimmy Carter vừa qua đời hôm 29/12/2024, hưởng thọ 100 tuổi. Hai năm qua ông trong tình trạng sức khoẻ yếu và được gia đình chăm sóc. Phu nhân của ông là bà Rosalyn Carter đã mất ngày 19/11/2023.

 

Jimmy Carter là tổng thống thứ 39, lãnh đạo Hoa Kỳ từ 1977 đến 1981.

 

Đó cũng là giai đoạn khởi đầu cao trào vượt biển của người Việt rời bỏ quê hương ra đi vì không thể sống dưới sự áp bức của chế độ cộng sản Hà Nội.

 

Trước làn sóng vượt biển, những năm đó tôi và các bạn sinh viên tại Đại học U.C. Berkeley đã cùng với sinh viên hai miền nam bắc California và nhiều hội đoàn của cộng đồng người Việt quốc gia tổ chức những cuộc biểu tình, những buổi thảo luận nói lên thảm trạng thuyền nhân, những buổi văn nghệ gây quỹ giúp người vượt biển, những vận động chính giới Hoa Kỳ cứu giúp người tị nạn trên biển Đông.

 

Năm 1979 có cuộc biểu tình lớn trước Bạch Ốc với sự có mặt của ca sĩ Joan Baez để ủng hộ thuyền nhân khiến Tổng thống Carter đã ra lệnh cho Đệ Thất Hạm đội của Hải quân Mỹ tại Thái Bình Dương vớt người vượt biển. Nếu không có quyết định này của lãnh đạo Hoa Kỳ, nhiều người trong chúng ta có thể đã vùi thây trong lòng biển cả. Trước đó không lâu, chính quyền Carter đã có chính sách nhận cho vào Mỹ định cư mỗi tháng 14 nghìn người tị nạn Đông Nam Á, một chính sách tị nạn chưa bao giờ có trước đó.

BuiVanPhu_2024_1229_TongThongJimmyCarter_H02_RallyForBoatPeople_UCBerkeley
Biểu tình kêu gọi cứu giúp thuyền nhân, Đại học U.C. Berkeley 1979 (Ảnh: Bùi Văn Phú)

 

Sau đợt định cư 130.000 người tị nạn Việt đầu tiên đến Mỹ vào năm 1975, với làn sóng vượt biển và chính sách định cư thuyền nhân được Tổng thống Carter ban hành, từ 1977 đến 1981 đã có hơn 300 nghìn người tị nạn Đông Nam Á, đại đa số là thuyền nhân Việt, được Hoa Kỳ cho nhập cư, là con số người tị nạn được Mỹ nhận nhiều nhất trong một nhiệm kỳ của tổng thống.

 

Sau đó lãnh đạo Mỹ tiếp tục có chính sách đón nhận cho định cư thuyền nhân vượt biển, con lai, cựu tù cải tạo cũng như thân nhân được đoàn tụ gia đình qua chương trình ODP, vì thế Tổng thống Jimmy Carter được tôn vinh là một đại ân nhân của thuyền nhân tị nạn người Việt.

 

Cũng liên quan đến Việt Nam, ngay sau khi vừa nhận chức ngày 20/1 thì ngày 21/1/1977 Tổng thống Carter ký pháp lệnh ân xá cho hơn 100.000 thanh niên đã trốn nghĩa vụ quân sự trong thời chiến tranh Việt Nam, đa số chạy qua sống bên quốc gia láng giềng Canada. Một quyết định gây nhiều tranh cãi và bất bình cho những chiến binh Hoa Kỳ đã từng tham chiến tại Việt Nam.

 

Về ngoại giao, chính sách của Tổng thống Carter đặt nhân quyền làm trọng tâm và đã giúp cho nhiều chục nghìn người gốc Do Thái được rời Liên bang Sô viết.

 

Tuy nhiên chính sách ngoại giao của chính quyền Carter được cho là quá yếu mềm và đã gặp thử thách ở nhiều nơi trên thế giới.

 

Đầu năm 1979 đế chế của vua Shah bị lật đổ, nhà vua phải rời Iran qua Ai Cập và Lực lượng Cách mạng Hồi giáo lên nắm quyền cai trị. Cuối năm đó, sứ quán Mỹ ở Teheran bị thành phần hồi giáo cực đoan tấn công và hơn 50 nhân viên, trong đó có tổng lãnh sự, bị bắt làm con tin. Sự kiện gây khủng hoảng chính trị cho Tổng thống Carter trong nhiều tháng. Một vụ giải cứu con tin được thực hiện nhưng thất bại vì trực thăng gặp trục trặc khi đáp xuống vùng sa mạc trong lãnh thổ Iran.

 

Sau 444 ngày bị giam giữ, 52 con tin Mỹ được thả chỉ ít phút trước khi Tổng thống Carter chấm dứt nhiệm kỳ vào ngày 20/1/1981 để chuyển giao quyền hành cho tổng thống kế nhiệm là Ronald Reagan.

 

Cũng dưới thời Tổng thống Jimmy Carter, cuối năm 1979 Hồng quân Liên Xô đã qua chiếm đóng Afghanistan. Sự kiện này khiến Hoa Kỳ kêu gọi thế giới tẩy chay Olympics được tổ chức tại Moscow vào hè 1980 và là một quyết định gây nhiều tranh cãi cho đoàn thể thao Mỹ và cũng không được cả thế giới hưởng ứng vì chỉ có 64 quốc gia theo Hoa Kỳ không tham dự, còn lại 80 quốc gia khác vẫn đưa đoàn tới Moscow thi đua.

BuiVanPhu_2024_1229_TongThongJimmyCarter_H03_Boat_Galang
Thuyền đưa người vượt biển đến đảo Galang, Indonesia (Ảnh: Bùi Văn Phú)

 

Một điểm son trong chính sách ngoại giao mà Tổng thống Carter đạt được là cuối năm 1978 ông đã mời Thủ tướng Menachem Begin của Do Thái và Tổng thống Anwar Sadat của Ai Cập đến Camp David để thảo luận và sau đó vào tháng 3/1979 hai bên đã ký một hiệp ước hoà bình chấm dứt thù nghịch giữa hai quốc gia.

 

Về đối nội, cuộc khủng hoảng năng lượng ảnh hưởng nhiều đến kinh tế. Khi đó dân Mỹ phải xếp hàng đổ xăng và có một thời gian người dân chỉ được đổ xăng theo ngày chẵn, lẻ tuỳ theo bảng số xe.

 

Lạm phát, mức thất nghiệp lên cao, mức phân lời tiền mượn ngân hàng để mua nhà lên gần 20%. Kinh tế trì trệ vì thế Tổng thống Jimmy Carter không được dân tín nhiệm khi ông tái tranh cử nhiệm kỳ thứ hai trong kỳ bầu cử tháng 11/1980.

 

Tổng thống Jimmy Carter sinh ngày 1/10/1924 tại Plains, vùng nông thôn đậu phộng của bang Georgia. Ông tốt nghiệp sĩ quan từ Học viện Hải quân Hoa Kỳ ở Annapolis, Maryland năm 1946 và phục vụ trong quân ngũ 7 năm. Tham gia chính trường tiểu bang, ông được bầu chọn làm thống đốc Georgia. Năm 1976 ông được Đảng Dân chủ tiến cử ra tranh đua với ứng viên của Đảng Cộng hoà là Tổng thống đương nhiệm Gerald Ford. Thống đốc Carter đã thắng với 297 phiếu cử tri đoàn.

 

Sau bốn năm làm chủ Bạch Ốc, rời thủ đô Washington cựu Tổng thống Jimmy Carter trở về Georgia, tiếp tục rao giảng Phúc âm và hoạt động xã hội giúp xây nhà cho người nghèo qua tổ chức Habitat for Humanity do ông khởi xướng.

 

Về mặt quốc tế, ông thường được mời để tổ chức giám sát các cuộc bầu cử tại nhiều quốc gia đang trong tiến trình phát triển dân chủ.

 

Ông cũng tham gia qua vai trò trung gian trong các thương thảo hoà bình giữa các quốc gia có xung đột. Những đóng góp đó của ông được ghi nhận với giải Nobel Hoà bình 2002.

 

Bùi Văn Phú


Tác giả Bùi Văn Phú là nhà báo tự do, giảng viên đại học cộng đồng tại vùng Vịnh San Francisco. Ông từng hoạt động giúp thuyền nhân và đã làm việc trong các trại tị nạn ở Đông Nam Á nhiều năm.

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Theo thời gian, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, số lượng Tăng, Ni đến định cư ở Mỹ ngày càng đông, theo diện vượt biển và vượt biên tị nạn Cộng Sản (từ 1975 đến 1989), theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (Orderly Departure Program - ODP) và Chiến Dịch Nhân Đạo (The Humanitarian Operation - HO) (từ 1980 đến 1997), hay theo diện hỗ trợ sinh hoạt tôn giáo được các chùa, các tổ chức Phật Giáo ở Mỹ bảo lãnh kể từ đầu những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3. Các vị Tăng, Ni này định cư ở Mỹ dù thuộc diện nào thì đều mang theo mình sứ mệnh hoằng dương Chánh Pháp của Đức Phật, duy trì và phát huy truyền thống văn hóa của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam tại xứ người. Đây là động lực chính hình thành các cộng đồng Phật Giáo Việt Nam ở Mỹ trải dài nửa thế kỷ qua.
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành tâm điểm trong lĩnh vực khoa học căn bản (basic science), góp phần định hình những bước tiến mới của nhân loại. Điều này càng được khẳng định rõ ràng hơn qua các Giải Nobel Hóa học và Vật lý năm 2024 khi cả năm người đoạt giải đều có điểm chung: có liên quan đến AI.
Trong ba chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump liên tục cam kết rằng ông sẽ điều hành chính phủ liên bang như một công ty. Giữ đúng lời hứa, ngay khi tái đắc cử, Trump đã bổ nhiệm tỷ phú công nghệ Elon Musk đứng đầu một cơ quan mới thuộc nhánh hành pháp mang tên Bộ Cải Tổ Chính Phủ (Department of Government Efficiency, DOGE). Sáng kiến của Musk nhanh chóng tạo ra làn sóng cải tổ mạnh mẽ. DOGE đã lột chức, sa thải hoặc cho nghỉ việc hàng chục ngàn nhân viên liên bang, đồng thời tuyên bố đã phát hiện những khoản chi tiêu ngân sách lãng phí hoặc có dấu hiệu gian lận. Nhưng ngay cả khi những tuyên bố của Musk đang được chứng minh sai sự thật, việc tiết kiệm được 65 tỷ MK vẫn chỉ là một con số chiếm chưa đến 1% trong tổng ngân sách 6.75 ngàn tỷ MK mà chính phủ Hoa Kỳ đã chi tiêu trong năm 2024, và là một phần vô cùng nhỏ nhoi nếu so với tổng nợ công 36 ngàn tỷ MK.
Trong bài diễn văn thông điệp liên bang trước Quốc Hội vừa qua, tổng thống Donald Trump tuyên bố nước Mỹ sẽ “will be woke no longer” – khẳng định quan điểm chống lại cái mà ông ta coi là sự thái quá của văn hóa “woke.” Tuyên bố này phản ánh lập trường của phe bảo thủ, những người cho rằng “wokeness” (sự thức tỉnh) là sự lệch lạc khỏi các giá trị truyền thống và nguyên tắc dựa trên năng lực. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần hiểu đúng về bối cảnh lịch sử của thuật ngữ “woke” để không có những sai lầm khi gán cho nó ý nghĩa tiêu cực hoặc suy đồi.
Chỉ với 28 từ, một câu duy nhất trong Tu Chính Án 19 (19th Amendment) đã mở ra kỷ nguyên mới cho phụ nữ Hoa Kỳ. Được thông qua vào năm 1920, tu chính án này đã mang lại quyền bầu cử cho phụ nữ sau hơn một thế kỷ đấu tranh không ngừng. Trong Hiến pháp Hoa Kỳ, Điều I của Tu Chính Án 19 quy định: “Chính phủ liên bang và tiểu bang không được phép từ chối hay ngăn cản quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ vì lý do giới tính.” (Nguyên văn là “The right of citizens of the United States to vote shall not be denied or abridged by the United States or by any State on account of sex.”)
Trong bối cảnh chính quyền Trump đẩy mạnh chiến dịch loại bỏ các chương trình Đa dạng, Bình đẳng và Hòa nhập (DEI), vai trò của phụ nữ trong lịch sử không chỉ là một chủ đề cần được khai thác mà còn là một chiến trường tranh đấu cho công lý và sự công nhận. Bất chấp sự ghi nhận hạn chế và thường xuyên bị lu mờ trong các tài liệu lịch sử, phụ nữ đã và đang đóng góp không thể phủ nhận vào dòng chảy của lịch sử thế giới. Các nhà sử học nữ, dẫu số lượng không nhiều và thường bị đánh giá thấp trong giới học thuật truyền thống, đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu và đưa ra ánh sáng những câu chuyện về phụ nữ, từ đó mở rộng khung nhìn lịch sử và khẳng định vai trò của mình trong xã hội. Tháng Lịch sử Phụ nữ diễn ra vào tháng Ba hàng năm, đây không chỉ là dịp để tôn vinh những thành tựu của phụ nữ mà còn là lúc để xem xét và đánh giá những thách thức, cũng như cơ hội mà lịch sử đã và đang mở ra cho nửa thế giới này.
Theo báo điện tử vnexpress.net, từ ngày USAID tái hoạt động tại Việt Nam, Mỹ đã hợp tác với Việt Nam để giải quyết các hậu quả do chiến tranh gây ra, bao gồm việc rà phá bom mìn, xử lý vật liệu nổ, tìm kiếm binh sĩ mất tích và xử lý chất độc da cam/dioxin. Từ năm 2019, USAID đã hợp tác với Bộ Quốc phòng Việt Nam để xử lý khoảng 500.000 mét khối đất nhiễm dioxin tại căn cứ Không quân Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Vào tháng Giêng năm 2024, Hoa Kỳ cam kết bổ sung thêm 130 triệu Mỹ kim, nâng tổng kinh phí cho việc làm sạch dioxin lên 430 triệu. Không rõ bây giờ USAID bị đóng băng, số bổ sung cam kết ấy có còn. Ngoài việc giúp giải quyết các hậu quả chiến tranh, USAID đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WHO) và Hiệp định song phương Việt Nam-Hoa Kỳ.
Elizabeth Eckford, một trong chín học sinh da đen tiên phong bước vào trường Trung học Little Rock Central năm 1957, đã trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm trong cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc tại Hoa Kỳ. Kể từ ngày khai trường lịch sử ấy đến nay, cuộc đấu tranh chống kỳ thị chủng tộc ở Hoa Kỳ đã đạt nhiều tiến bộ đáng kể, cho đến gần đây, Donald Trump lên nắm quyền và ra lệnh xóa bỏ toàn bộ chính sách Đa dạng, Công bằng và Hòa nhập (DEI) trên khắp đất nước thúc đẩy sự gia tăng của các hành vi thù ghét trên toàn quốc, câu chuyện của Eckford càng trở nên cấp thiết. Việt Báo đăng lại câu chuyện lịch sử này như lời nhắc nhở quyền bình đẳng không thể bị xem là điều hiển nhiên, và cuộc đấu tranh cho công lý, bình đẳng vào lúc này thực sự cần thiết.
Năm 1979, Steve cho xuất bản Indochina Newsletter là tài liệu liên quan đến các vi phạm nhân quyền tại Việt Nam sau ngày 30/4/1975, sau đổi tên thành Indochina Journal, rồi Vietnam Journal. Tôi và vài người Việt nữa đã cùng làm việc với Steve trong việc phối kiểm tin tức liên quan đến tù nhân lương tâm và dịch nhiều tài liệu của các phong trào đòi tự do dân chủ tại Việt Nam sang tiếng Anh, như Cao trào Nhân bản của Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Diễn đàn Tự do của Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, các bài giảng về sám hối vào Mùa chay 1990 của linh mục Chân Tín, cũng như những tuyên cáo về tình trạng thiếu tự do tôn giáo của các Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thượng tọa Thích Trí Siêu Lê Mạnh Thát; của Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, Linh mục Nguyễn Văn Lý.
Mục tiêu ban đầu khi Tổng thống John F. Kennedy thành lập USAID trong cuộc chiến tranh lạnh với Nga vào năm 1961, nội các của ông không chỉ nhắm đến các viện trợ dân sự và nhân đạo mà còn mang mục đích sâu xa hơn: Đó là sự ổn định và phát triển của các quốc gia khác sẽ bảo vệ cho nền an ninh quốc gia Hoa Kỳ. Mục đích này vẫn không thay đổi sau hơn sáu thập niên hoạt động của USAID, qua nhiều đời tổng thống Mỹ. Bởi lợi ích của nước Mỹ nằm khắp thế giới, những sự giúp đỡ, viện trợ trước mắt mang lại lợi ích chiến lược lâu dài cho nước Mỹ. Các nghiên cứu về USAID cho thấy quyền lực mềm của nước Mỹ do USAID đã mang lại thiện cảm về nước Mỹ, giúp hàng hóa, sản phẩm Mỹ được ưa chuộng tại các thị trường nội địa và gián tiếp giúp cho các tập đoàn Mỹ nhận được các hợp đồng kinh tế to lớn so với các đối thủ. Ngược lại, khi thiện cảm này bị mất đi, hay thậm chí bị ghét bỏ, làn sóng tẩy chay hàng Mỹ là lẽ đương nhiên. Những chương trình giáo dục, huấn nghệ cho trẻ em các nước chiến tranh
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.