Hôm nay,  

George Washington: Doanh Nhân Đích Thực

28/03/202500:00:00(Xem: 1440)

HIỂU RÕ KHÁC BIỆT GIỮA QUẢN TRỊ THƯƠNG MẠI & ĐIỀU HÀNH QUỐC GIA

Quan tri thuong mai

Nếu như trong kinh doanh, người chủ có quyền ra quyết định nhanh chóng, tập trung tối đa vào lợi nhuận và kiểm soát hoàn toàn bộ máy vận hành, thì quản trị quốc gia lại là một câu chuyện hoàn toàn khác. (Nguồn: pixabay.com)

Trong ba chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump liên tục cam kết rằng ông sẽ điều hành chính phủ liên bang như một công ty. Giữ đúng lời hứa, ngay khi tái đắc cử, Trump đã bổ nhiệm tỷ phú công nghệ Elon Musk đứng đầu một cơ quan mới thuộc nhánh hành pháp mang tên Bộ Cải Tổ Chính Phủ (Department of Government Efficiency, DOGE).

 

Sáng kiến của Musk nhanh chóng tạo ra làn sóng cải tổ mạnh mẽ. DOGE đã lột chức, sa thải hoặc cho nghỉ việc hàng chục ngàn nhân viên liên bang, đồng thời tuyên bố đã phát hiện những khoản chi tiêu ngân sách lãng phí hoặc có dấu hiệu gian lận. Nhưng ngay cả khi những tuyên bố của Musk đang được chứng minh sai sự thật,  việc tiết kiệm được 65 tỷ MK vẫn chỉ là một con số chiếm chưa đến 1% trong tổng ngân sách 6.75 ngàn tỷ MK mà chính phủ Hoa Kỳ đã chi tiêu trong năm 2024, và là một phần vô cùng nhỏ nhoi nếu so với tổng nợ công 36 ngàn tỷ MK.

 

Ngoài những con số đáng ngờ, DOGE cũng gây ra nhiều tranh cãi về mặt pháp lý. Vì cơ quan này chưa được Quốc hội chính thức công nhận, nên việc cắt giảm nhân sự bừa bãi và không có cơ sở pháp lý rõ ràng đang đặt ra những câu hỏi lớn về tính hợp hiến của sáng kiến này. 

 

Liệu mô hình “quản trị chính phủ như điều hành công ty” của Trump có thể thực sự mang lại hiệu quả như ông kỳ vọng? Hay nó đang vi phạm các nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp Hoa Kỳ?

 

Trước khi tiến xa hơn trên con đường áp dụng lối điều hành công ty, xí nghiệp vào quản trị một quốc gia, có lẽ Trump và các cố vấn của ông nên nghiền ngẫm bài học từ vị tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ: George Washington.

 

George Washington: từ doanh nhân đến tổng thống

 

Cũng giống như Trump, George Washington là một nhà đầu tư bất động sản và doanh nhân thành đạt. Bên cạnh việc nắm giữ đất đai tại Virginia và sáu tiểu bang khác, ông còn có quyền sở hữu nhiều vùng đất của người bản địa tại Thung lũng Sông Ohio.

 

Với các khoản đầu tư trải rộng trên nhiều khu vực, Washington hiểu rõ tầm quan trọng của giao thông và cơ sở hạ tầng. Ông ủng hộ mạnh mẽ các dự án giao thông quy mô lớn, quan tâm đặc biệt đến sự phát triển của tàu hơi nước (steamboat), và thậm chí còn thành lập Công ty Patowmack, tiền thân của những tập đoàn xây dựng Kênh đào Chesapeake và Ohio sau này.

 

Nhưng trên hết, Washington là một người nông dân. Tại điền trang Mount Vernon ở miền bắc Virginia, ông trồng thuốc lá, lúa mì và điều hành một nhà máy xay lúa. Sau khi rời nhiệm sở, ông tiếp tục mở rộng hoạt động kinh doanh và xây dựng một nhà máy chưng cất rượu làm ăn rất khấm khá. Đến khi qua đời, ông sở hữu gần 8,000 mẫu đất canh tác và rừng – gấp gần bốn lần số tài sản ông thừa kế ban đầu.

 

Tuy nhiên, đế chế kinh doanh của Washington lại gắn liền với lao động nô lệ. Ông sở hữu khoảng 300 nô lệ gốc Phi, đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động kinh doanh của ông. Dù trong di chúc, Washington đã giải phóng 123 nô lệ, nhưng suốt quãng đời của mình, ông vẫn kỳ vọng họ phải làm việc theo ý muốn của mình.

 

Tổng thống Washington và bài học về quyền lực

 

Khi còn là doanh nhân và chủ đồn điền, Washington quen với việc ra lệnh và được tuân theo. Nhưng khi trở thành tổng thống, ông nhanh chóng nhận ra rằng quản trị một quốc gia không đơn giản như điều hành một công ty.

 

Vào đầu năm 1790, gần một năm sau khi nhậm chức, Washington đã viết thư cho nhà sử học người Anh Catharine Macaulay để chia sẻ suy nghĩ của ông về mô hình chính phủ mới của Hoa Kỳ. Trước đó vài năm, Macaulay đã từng đến thăm Mount Vernon, và bà rất muốn nghe quan điểm của Washington về hệ thống chính trị mà ông đang điều hành.

 

Trong thư, ông mô tả đây là “thử nghiệm vĩ đại cuối cùng nhằm thúc đẩy hạnh phúc của nhân loại thông qua một bản khế ước hợp lý.” Washington nhận định rằng chính phủ Hoa Kỳ là không chỉ “là một chính phủ dựa trên pháp luật, mà còn là một chính phủ của sự thỏa hiệp.

 

Trên cương vị tổng thống, Washington biết quyền lực của ông không phải là tuyệt đối. Trong suốt một năm đầu tiên tại nhiệm, ông đã nhận ra rằng “có việc cần cân nhắc kỹ lưỡng, có việc phải thương lượng, hòa giải và có việc phải kiên định giữ vững lập trường. Chỉ những ai có cái nhìn sâu sắc và thấu đáo về chính trị mới có thể thực sự hiểu được những cái khó khăn và khó xử của vị trí mà tôi đang đảm nhiệm.

 

Dù Washington không nói thẳng lý do tại sao vị trí của ông lại “khó xử,” nhưng ai cũng hiểu điều đó xuất phát từ thực tế rằng Quốc hội mới là cơ quan quyền lực nhất của chính phủ Hoa Kỳ.

 

Chỉ một năm trước đó, Quốc hội đã thể hiện rõ quyền lực của mình khi tranh luận về một vấn đề quan trọng: việc liệu tổng thống có thể bãi nhiệm các bộ trưởng mà không cần sự chuẩn thuận của Thượng Viện hay không.

 

Sau nhiều tranh cãi, cuối cùng, trong Quyết định năm 1789 (Decision of 1789), Quốc hội cho phép tổng thống có quyền lột chức các viên chức cấp cao này. Tuy nhiên, kết quả chỉ được thông qua sau khi Phó Tổng thống John Adams phải bỏ phiếu quyết định để phá vỡ thế bế tắc.

 

Ý nghĩa của cuộc biểu quyết này rất rõ ràng: trong những trường hợp mà Hiến pháp còn mơ hồ, Quốc hội sẽ là cơ quan quyết định tổng thống có quyền nào và không có quyền nào.

 

Washington sớm hiểu rằng, dù muốn hay không, ông vẫn phải làm việc với Quốc hội để vận hành một chính phủ hiệu quả. Điều này được minh chứng rõ nhất khi Quốc hội thành lập Quỹ Sinking Fund vào năm 1790 để quản trị nợ công quốc gia.

 

Về nguyên tắc, quỹ này thuộc Bộ Ngân Khố – một cơ quan nằm trong nhánh hành pháp. Nhưng thay vì để tổng thống kiểm soát quỹ này, Quốc Hội lại thành lập một ủy ban giám sát có nhiệm kỳ cố định, nghĩa là tổng thống không thể lột chức họ và cũng không thể can thiệp vào công việc của họ.

 

Việc Quốc hội giới hạn quyền lực của Washington đối với Ủy ban Quỹ Sinking Fund (Sinking Fund Commission) đã tạo ra một tiền lệ quan trọng. Một minh chứng điển hình cho tiền lệ này là vụ kiện Humphrey’s Executor v. U.S. năm 1935. Phán quyết của tòa trong vụ kiện này sẽ khiến những người ủng hộ “học thuyết hành pháp thống nhất” (unitary executive theory) không vui, bao gồm cả Donald Trump – những người tin rằng tổng thống nên có toàn quyền kiểm soát nhánh hành pháp.

 

Năm đó, Tối Cao Pháp Viện ra phán quyết rằng Tổng thống Franklin D. Roosevelt không thể tự ý bãi nhiệm một viên chức của Ủy ban Mậu dịch Liên bang (Federal Trade Commission, FTC) trước khi nhiệm kỳ của họ kết thúc. Khi đó, Roosevelt lập luận rằng chính quyền của ông sẽ hoạt động hiệu quả hơn nếu được làm việc với những người do ông tự lựa chọn.

 

Cũng giống như vị doanh nhân đang ngồi trong Tòa Bạch Ốc, Washington không phải lúc nào cũng vui vẻ với việc phải chia sẻ quyền lực với Quốc hội. Quốc hội Hoa Kỳ không phải là QH bù nhìn – các nghị sĩ đều có suy nghĩ riêng của mình, lập trường vững vàng và hiếm khi làm theo mệnh lệnh của tổng thống.

 

Nhưng Washington hiểu rằng hợp tác với Quốc hội là cách duy nhất để xây dựng một chính phủ liên bang thực sự hiệu quả, với từng nhánh thực thi đúng quyền hạn được Hiến pháp Hoa Kỳ trao cho, theo ý định của các nhà lập quốc. Nhờ nguyên tắc kiểm soát và cân bằng quyền lực, Hoa Kỳ là – và vẫn là – một chính phủ dựa trên sự thỏa hiệp giữa ba nhánh quyền lực. Không ai là ngoại lệ, kể cả tổng thống.

 

Điều đáng ghi nhận là Washington nhanh chóng thấu hiểu và thích nghi với bài học quan trọng đó.

 
Nguyên Hòa biên dịch

 

Nguồn: “George Washington, a real estate investor and successful entrepreneur, knew the difference between running a business and running the government” được đăng trên trang TheConversation.com.

  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở Hoa Kỳ, khi nghe đến cụm từ “giáo dục tổng quát,” người ta thường hình dung về những khóa học nhập môn trong các lĩnh vực nghệ thuật, nhân văn, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và toán học. Tùy vào mỗi trường, chương trình này có thể mang những cái tên khác nhau như “chương trình căn bản” (core curriculum) hay “các môn học bắt buộc” (distribution requirements). Ngoài ra, chương trình này đôi khi còn có một tên gọi khác là “giáo dục khai phóng” (liberal education). Hội các trường Cao đẳng và Đại học Hoa Kỳ (American Association of Colleges and Universities, AACU) mô tả đây là chương trình giúp bồi dưỡng “tinh thần trách nhiệm xã hội, cùng với các kỹ năng trí tuệ và thực tiễn vững vàng có thể vận dụng linh hoạt.”
Trong nhiều năm kể từ khi Jeffrey Epstein được phát hiện chết trong phòng giam tại Metropolitan Correctional Center (MCC), New York, giới chức liên bang luôn khẳng định rằng cái chết này là một vụ tự sát. Tuy nhiên, một cuộc điều tra độc lập do CBS News thực hiện đã phơi bày hàng loạt mâu thuẫn giữa các tuyên bố của chính phủ và những gì thực sự hiện ra trong đoạn phim giám sát vừa được công bố.
Cuối mùa Hè năm 1955, Till-Mobley tiễn con trai của bà, Emmett Till 14 tuổi lên một chuyến tàu từ Chicago đến thăm chú và các anh em họ của Emmett ở quê hương Mississippi của bà. Giống như những phụ nữ và đàn ông da đen nói với con cái họ về việc chú ý các điểm dừng giao thông và các cuộc chạm trán khác với cảnh sát, Till-Mobley đã căn dặn Emmett rất kỹ. Bà cho cậu biết cậu đang đi đến một nơi mà an toàn phụ thuộc vào khả năng kiềm chế sự bốc đồng, tính cách không khuất phục của cậu với người da trắng. Linh cảm của người mẹ mang đến trong lòng bà nỗi bất an không giải thích được. Bà đưa cho Emmett chiếc nhẫn bạc của ông Louis Till, cha của cậu. Chiếc nhẫn khắc chữ L.T.
“Đi về Miền Nam, miền hương thơm bông lúa tràn ngập đầy đồng; Đi về Miền Nam, miền xinh tươi đất rộng cùng chung nguồn sống” Và cứ như thế, với tiếng hát trong tâm tưởng, từng đoàn người gồng gánh ra đi. Họ đi về hướng Nam giống như cha ông của mình từ bao nhiêu thế kỷ trước. Bây giờ lại còn một động lực mới và mãnh liệt khác, đó là đi tìm tự do: ‘chúng tôi muốn sống!’, như tên gọi một cuốn phim nổi tiếng của đồng bào di cư sau này. Cuối tháng 6, dù hiệp định đình chiến chưa ký kết nhưng quân đội Pháp và Quốc gia đã rút lui khỏi nhiều địa điểm ở đồng bằng Bắc Việt nên nhiều người bắt đầu di tản về các đô thị, đặc biệt là Hải phòng.
Cõi này ngày càng bất an! Tình trạng hâm nóng toàn cầu đã dẫn tới nhiều thảm họa như bão lụt, hạn hán, mực nước biển dâng cao, dịch bệnh, mất mùa, đói khát lầm than. Chiến tranh thù hận ngày càng hung bạo đã làm cho hàng triệu người thương vong, nhà cửa ruộng vườn bị phá hoại. Các chế độ độc tài, quân phiệt, và nạn kỳ thị sắc tộc đã thẳng tay đàn áp dân lành. Tất cả những điều trên đã dẫn đến thảm trạng bỏ nước đi của hàng triệu người trên thế giới! Theo Population Division of the United Nations Department of Economic and Social Affairs (UNDESA), năm 2024 có tới 304 triệu di dân trên toàn cầu, là một con số tăng gần gấp đôi kể từ năm 1990, khi lúc đó có 154 triệu di dân trên thế giới. Đó là 3.7% tổng dân số địa cầu. Theo Cơ Quan Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, tính tới cuối năm 2024, có 43.7 triệu người tị nạn, gồm 6 triệu người tị nạn từ Palestine và 8 triệu người xin được nhận vào quy chế tị nạn trên toàn cầu.
Trong số người Việt, thế hệ thứ nhất có 29% học xong cử nhân hay cao hơn. Thế hệ sinh ra lớn lên tại Hoa Kỳ con số này là 59%. Như thế có thể lý giải là phụ huynh không có cơ hội học cao nhưng khuyến khích con theo đuổi đường học vấn cho tương lai.
Khi các chuyên gia quan ngại về mối quan hệ của giới trẻ với thông tin trực tuyến, họ thường cho rằng giới trẻ tuổi không hiểu biết về phương tiện truyền thông như những người lớn tuổi hơn. Nhưng công trình nghiên cứu dân tộc học do Jigsaw – cơ sở công nghệ của Google - thực hiện lại tiết lộ một thực tế phức tạp và tinh tế hơn: Thế hệ Z, thường được hiểu là những người sinh sau năm 1997 và trước năm 2012, đã phát triển các chiến lược khác biệt rõ rệt để đánh giá thông tin trực tuyến, những chiến lược sẽ khiến bất kỳ ai trên 30 tuổi trở nên bối rối. Họ không tiếp thu thông tin như những người lớn tuổi hơn bằng cách đầu tiên đọc tiêu đề và sau đó là nội dung.
Người Việt Nam không ai xa lạ với từ ‘Gulag’ - trại tù lao động khổ sai khét tiếng của Liên Bang Xô Viết. Ước tính trong khoảng hai thập niên từ 1930-1953, nơi đây giam giữ khoảng 4 triệu tù nhân; 1.5 triệu đã chết trong tù hay sau khi được thả một thời gian ngắn. Gulag từng được xem là địa ngục trần gian, là biểu tượng cho sự tàn bạo của nhà tù cộng sản. Trong những ngày cuối tháng 6, khi mà người dân Mỹ chuẩn bị pháo hoa đón mừng Lễ Độc Lập, cái tên Gulag được sử dụng khi nói đến một nhà tù mới được hình thành ở Florida. Nhà tù này có tên gọi là Alligator Alcatraz. Trong một bài viết được đăng trên trang mạng Amrican Community Media ngày 30/06/2025, nhà báo Laszlo Bartus đã cảnh báo rằng nó sẽ là nhà tù vô nhân đạo nhất thế giới.
Trong hơn bảy mươi năm qua, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iran đã trải qua nhiều bước ngoặt – từ một liên minh chiến lược thời Chiến tranh Lạnh, đến một trong những nước đối đầu gay gắt và kéo dài nhất của thời đại hậu thuộc địa. Bản tóm lược dưới đây ghi lại những cột mốc chính từ năm 1953 đến 2025, nhằm cung cấp một cái nhìn toàn diện về diễn biến phức tạp của quan hệ Hoa Kỳ–Iran trong bối cảnh biến động địa chính trị toàn cầu.
Tháng 5 vừa qua, một chuyến bay từ Johannesburg, Nam Phi đã đáp xuống phi trường Quốc tế Dulles, Hoa Kỳ. Trên phi cơ là khoảng 50 công dân Nam Phi da trắng thuộc cộng đồng Afrikaner. Những người này cho biết sinh kế của họ đang bị đe dọa nghiêm trọng do xã hội ngày càng “kỳ thị người da trắng.” Cách mô tả tình hình Nam Phi như vậy ngay lập tức nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ từ các nhà bình luận cánh hữu có ảnh hưởng ở Mỹ như Tucker Carlson, Charlie Kirk, và Stephen Miller.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.